Chùa Bà Thiên Hậu (cách gọi của người Việt) tọa lạc tại số 710 Nguyễn Trãi, quận 5, TP.HCM có tên chữ Hán là Thiên Hậu Miếu. Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất người Hoa đã xây dựng ở Chợ Lớn xưa. Theo các sử liệu, chùa được nhóm người Hoa gốc Quảng Châu di dân sang Việt Nam góp vốn và góp công xây dựng vào khoảng năm 1760.
Chùa được xây theo hình ấn, là kiểu kiến trúc đặc trưng cùa người Hoa. Đây là tổ hợp 4 ngôi nhà liên kết nhau, 3 dãy nhà ở giữa tạo thành Chính điện, Trung điện, Tiền điện; dãy nhà cuối cùng là Hậu điện. Giữa các dãy nhà có một khoảng trống gọi là thiên tỉnh (giếng trời), giúp không gian chùa thoáng đãng, đủ ánh sáng và có chỗ thoát khói hương.
Khi Tết đến, người dân khắp nơi đến chùa để dâng hương, cầu bình an. Tên gốc Thiên Hậu Miếu dịch sang tiếng Việt là Miếu thờ Bà Thiên Hậu. Dần dần dựa vào cách gọi của nhiều người, chỉ cần là điểm linh thiêng thì gọi là chùa. Chính vì thế, cái tên chùa Bà Thiên Hậu ra đời.
Trong Chính điện chùa gọi là Thiên Hậu cung thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu. Tượng Bà Thiên Hậu được tạc từ một cây gỗ nguyên khối cao 1m, có từ trước khi xây chùa, vốn được thờ ở TP Biên Hòa (Đồng Nai), đến năm 1836 mới di chuyển về đây. Tượng Thiên Hậu Thánh Mẫu khoác áo thêu vàng rực, lộng lẫy.
Người Hoa thường thắp cây hương lớn có hoa văn cầu kỳ, nổi bật và treo hương vòng trên trần Chính điện.
Theo truyền thuyết, Thiên Hậu Thánh Mẫu là người thời Tống, tên thật là Mi Châu. 8 tuổi bà biết đọc, 11 tuổi bà tu theo Phật giáo, 13 tuổi đã đắc đạo và có phép thần thông. Một lần, cha bà cùng hai anh trai chở muối đi bán, giữa đường thuyền gặp bão lớn. Lúc đó, bà đang ngồi dệt vải ở nhà cạnh mẹ nhưng đã xuất thần, dùng răng cắn áo cha, hai tay nắm hai anh. Bỗng dưng mẹ gọi, bà vừa hở môi trả lời thì sóng cuốn cha đi mất, chỉ cứu được hai anh. Từ đó, mỗi khi thuyền bè ngoài biển bị nạn người ta đều gọi vái đến bà. Năm 1110 nhà Tống sắc phong cho bà là "Thiên Hậu Thánh Mẫu".
Hai chiếc chuông cổ bên trái Chính điện mang đặc trưng văn hóa của người Hoa.
Tiền điện là nơi đặt miếu thờ của Môn Quan Vương tả (thần giữ cửa) bên trái.
Bên phải Tiền điện là nơi đặt miếu thờ của Phúc Đức Chánh thần (Thần thổ địa - người cai quản đất đai của nhân dân).
Trung điện có lưu giữ bộ lư cổ phát lam lớn niên hiệu Quang Tự thứ 12 (1886) với nhiều nét điêu khắc tỉ mỉ, tinh xảo. Chùa Bà Thiên Hậu có tầm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống văn hóa của cộng đồng người Hoa đang sinh sống ở Sài Gòn. Tồn tại đã 258 năm, nhưng chùa vẫn giữ được nét đặc trưng kiến trúc của người Hoa.
Bên phải bộ lư là kiệu sơn son thiếp vàng, chạm khắc tinh xảo.
Mô hình kiệu cổ được chạm khắc tỉ mỉ, cầu kỳ từng chi tiết bên trái bộ lư.
Một bức tranh đắp nổi trong 41 bức tranh liên hoàn trên nền tường dọc theo 2 hành lang chùa.
Khi bước vào chùa, du khách sẽ thấy ấn tượng trước vẻ đẹp tĩnh lặng và thanh tịnh của chùa. Mọi cảnh vật nơi đây đều nhuốm màu thời gian, khiến cho không gian càng tĩnh lặng, an yên.
Theo thống kê, chùa có trên 400 món đồ cổ, trong đó có 7 pho tượng thần, 6 tượng đá, 9 bia đá, 2 chuông nhỏ, 4 lư hương đồng, 1 lư hương đá, 10 bức hoành phi, 23 câu đối... Tất cả những cổ vật này đều được chế tác rất công phu, tỉ mỉ với những đường nét tinh tế.
Chùa Bà Thiên Hậu hàng ngày đón tiếp những người đến cúng lễ khá đông, nhưng đông hơn là vào các ngày mùng Một và Rằm hàng tháng, các ngày lễ Tết trong năm như: Tết Nguyên đán, Tết Nguyên tiêu, Tết Đoan ngọ...