Chiều ngày 31/12, tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) cung cấp thông tin tới các cơ quan báo chí về kết quả hoạt động năm 2025 của ngành KH&CN và một số nhiệm vụ trọng tâm năm 2026.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Hoàng Phương chủ trì họp báo. (Ảnh: Bộ KH&CN)
Trả lời báo chí về Luật Trí tuệ nhân tạo (AI) được Quốc hội thông qua vào kỳ họp tháng 12/2025 (có hiệu lực từ ngày 1/3/2026), ông Trần Văn Sơn - Phó Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số quốc gia (Bộ KH&CN) - cho biết, hiện trên thế giới mới chỉ có ba khu vực và quốc gia ban hành Luật AI, gồm: Liên minh châu Âu (EU), Hàn Quốc và Nhật Bản. Các quốc gia khác chủ yếu mới dừng ở mức chiến lược, hướng dẫn hoặc dự thảo luật.
Trong đó, EU tiếp cận theo hướng quản lý chặt chẽ, chi tiết, nhấn mạnh an toàn; Nhật Bản theo hướng thúc đẩy phát triển; Hàn Quốc ban hành luật ở mức cơ bản, đề cập cả an toàn và phát triển nhưng thiên về phát triển, yêu cầu an toàn tương đối nhẹ.
Cách tiếp cận của Việt Nam là bảo đảm mức độ an toàn cao hơn khung cơ bản của Hàn Quốc, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ như Nhật Bản, đồng thời hài hòa giữa an toàn và phát triển.
Ông Trần Văn Sơn - Phó Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số quốc gia - chia sẻ tại họp báo. (Ảnh: Bộ KH&CN)
Sự ra đời của Luật Trí tuệ nhân tạo Việt Nam hướng tới mục tiêu kép: lấp đầy khoảng trống pháp lý để quản lý các hình thức ứng dụng mới của AI và chuyển từ tư duy quản lý bị động sang kiến tạo chủ động. Qua đó, luật góp phần thể chế hóa các chủ trương của Đảng, định hình trí tuệ nhân tạo trở thành động lực tăng trưởng kinh tế cốt lõi của quốc gia.
Luật được xây dựng trên nguyên tắc định hướng lấy con người làm trung tâm, bảo đảm AI được phát triển và ứng dụng một cách an toàn, minh bạch, có trách nhiệm, vì lợi ích của con người.
Luật khẳng định AI là công cụ hỗ trợ, không thay thế vai trò quyết định của con người: việc phát triển AI phải song hành với bảo vệ lợi ích quốc gia và quyền lợi công dân.
Về phạm vi và đối tượng áp dụng, luật quy định toàn diện các hoạt động liên quan đến nghiên cứu, phát triển, cung cấp, triển khai và sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam, ngoại trừ các hoạt động AI phục vụ riêng cho mục đích quốc phòng, an ninh quốc gia và cơ yếu do tính chất đặc thù.
Luật áp dụng đối với mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam, cũng như tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia hoạt động AI trên lãnh thổ Việt Nam. Quy định này thiết lập cơ chế quản lý đối với các hoạt động xuyên biên giới, qua đó khẳng định chủ quyền quốc gia.
Về nội dung cốt lõi, Luật Trí tuệ nhân tạo được thiết kế theo mô hình luật khung, gồm 8 chương, 35 điều, tập trung vào các nguyên tắc nền tảng, đồng thời dành sự linh hoạt cho Chính phủ quy định chi tiết nhằm thích ứng với tốc độ thay đổi nhanh của công nghệ. Cụ thể, luật tập trung giải quyết các nhóm vấn đề chính sau:
Thứ nhất, quy định các nguyên tắc và phạm vi chính sách phát triển trí tuệ nhân tạo, bảo đảm phát triển vì con người, lấy con người làm trung tâm, xác định rõ vai trò của Nhà nước trong quản lý, điều phối và kiến tạo phát triển AI quốc gia.
Thứ hai, thiết lập cơ chế quản lý theo mức độ rủi ro, bảo đảm việc phát triển, ứng dụng và sử dụng AI được an toàn, minh bạch, có thể kiểm soát và có trách nhiệm giải trình, đồng thời bảo đảm quản lý linh hoạt, hiệu quả, khuyến khích đổi mới sáng tạo.
Thứ ba, phát triển hạ tầng và bảo đảm chủ quyền trí tuệ nhân tạo quốc gia, bao gồm hạ tầng dữ liệu, hạ tầng tính toán và các nền tảng dùng chung, bảo đảm an ninh, an toàn, quyền tự chủ công nghệ và chủ quyền dữ liệu quốc gia.
Thứ tư, thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và phát triển nguồn nhân lực thông qua các cơ chế, chính sách hỗ trợ nghiên cứu, đầu tư, đào tạo nhân lực chất lượng cao, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân tham gia phát triển, ứng dụng AI.
Thứ năm, quy định về đạo đức và trách nhiệm trong hoạt động trí tuệ nhân tạo, ban hành khung đạo đức AI quốc gia, bảo đảm hệ thống AI được phát triển và sử dụng vì con người, không gây hại, không phân biệt đối xử, tôn trọng các giá trị nhân văn.
Thứ sáu, tăng cường cơ chế giám sát, thanh tra và xử lý vi phạm, bảo đảm tính răn đe, công khai, minh bạch, qua đó củng cố niềm tin xã hội trong phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo.
Đặc biệt, luật định hướng làm chủ các mô hình nền tảng, mô hình ngôn ngữ lớn và dữ liệu bản địa, giúp AI hiểu sâu sắc văn hóa Việt Nam, đồng thời củng cố vững chắc chủ quyền và an ninh quốc gia trong kỷ nguyên số.
"Luật Trí tuệ nhân tạo không chỉ là một công cụ quản lý, mà còn là cam kết chiến lược của Việt Nam trong việc làm chủ công nghệ, bảo vệ con người và kiến tạo một tương lai số chủ động, an toàn và nhân văn”, ông Trần Văn Sơn - Phó Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số quốc gia (Bộ KH&CN) - khẳng định.