Thành viên của hội đồng ngành y có 7/25 người là giám đốc các bệnh viện. Đây là những người làm quản lý nên ít làm nghiên cứu và vì vậy, năm nay những thành viên này có rất ít bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế nổi tiếng. Do đó, nếu nói về bài báo thì các thành viên hội đồng giáo sư ngành y đều không đủ tiêu chuẩn “thầy” hơn “trò” vì các ứng viên giáo sư, phó giáo sư (GS, PGS) của ngành này năm nay phần lớn là những người trẻ, có thành tích nghiên cứu khoa học rất “khủng”.
Theo tìm hiểu của phóng viên, trong số 27 ứng viên ngành y được công nhận PGS năm 2019 có một ứng viên đến từ Trung tâm Ung bướu, Bệnh viện T.Ư Thái Nguyên. Trong hồ sơ, ứng viên này liệt kê có 5 bài báo khoa học được đăng trên tạp chí quốc tế. Nhưng 5 bài này đều không đăng trên các tạp chí khoa học được quốc tế công nhận như ISI, Scopus hay Pubmed . Phần lớn các bài báo đều đăng trên tạp chí của Ấn Độ và có 1 bài không tìm thấy đường dẫn.
Bảng số liệu so sánh của GS Nguyễn Văn Tuấn.
Nhiều bất cập
GS Nguyễn Văn Tuấn, nghiên cứu viên chính tại Viện Garvan, ĐH New South Wales, Úc cho biết đã tập trung vào danh sách bài báo trên các tạp chí trong danh mục nổi tiếng, chủ yếu là Clarivate và Scopus để phân tích sơ bộ dữ liệu đối với ngành y. Kết quả cho thấy, ở cấp GS, số bài báo khoa học tính trung bình là 15. Nhưng số bài báo của mỗi ứng viên dao động rất lớn, từ 5 đến 159 bài. Hơn 80% trong số những bài này ứng viên không phải là tác giả chính.
Ở cấp PGS, số bài báo trung bình là 18, nhưng có người không có bài nào, nhưng cũng có ứng viên là tác giả của 80 bài. Đa số ứng viên không phải là tác giả chính.
Về tần số trích dẫn, các ứng viên cấp GS có chỉ số trích dẫn trung bình là 15, chủ yếu nhờ vào 1 GS có nhiều trích dẫn từ các bài báo hợp tác quốc tế, nhưng cấp PGS chỉ số này lên đến 33. “Những con số trên nói lên một xu hướng rất nghịch lý: Ứng viên cấp PGS có năng suất khoa học cao hơn các ứng viên cấp GS. Ngay cả tính bằng chỉ số trích dẫn, các PGS cũng cao hơn các GS. Một điều rất thú vị khác là đa số (76%) các bài báo chỉ được công bố trong thời gian 2017 - 2018. Vài ứng viên có gần 95% bài báo chỉ trong vòng hai năm 2018 - 2019”, GS Tuấn cho hay.
Ông cũng làm một phép so sánh với khoa Y, ĐH John Hopkins của Mỹ, khoa Y của một trường ĐH thuộc nhóm G8 của Úc và ĐH Tôn Đức Thắng của Việt Nam cho thấy, các chỉ số như số bài báo trung bình, số lần trích dẫn của ứng viên GS, PGS hội đồng GS ngành Y đều thấp hơn các trường ĐH nêu trên.
GS Nguyễn Văn Tuấn chỉ ra hàng loạt bất cập trong các tiêu chuẩn mà Hội đồng GS Nhà nước quy định: “Hồ sơ của các ứng viên hơi đơn giản. Đáng chú ý, danh sách bài báo được trình bày rất phi khoa học. Cách báo cáo như hiện nay rất khó giúp người đọc đánh giá đúng vai trò của tác giả thế nào trong bài báo.
Tiêu chuẩn như hiện nay đa số ứng viên đều dễ dàng đáp ứng khi mỗi tiến sĩ tốt nghiệp đã có 2 - 5 bài báo khoa học. GS mà lý lịch chỉ số 2-5 bài báo thì rất khó coi với đồng nghiệp quốc tế. Chưa kể nghiên cứu khoa học và giảng dạy là hai lĩnh vực rất khác nhau, không thể quy đổi điểm được”.
Theo ông, một ứng viên có thể công bố hàng chục bài báo nhưng qua 5 năm mà có 0 trích dẫn thì không đạt.
GS Tuấn cho biết: “Trên thế giới có kỹ nghệ xuất bản dỏm (predatory publishing) của từ Ấn Độ, châu Phi, Trung Đông. Mô típ kinh doanh của các cơ sở này là mỗi ngày gửi hàng trăm, hàng ngàn email đến các tác giả để tìm bài. Rất nhiều nhà khoa học là “con mồi” (hay nạn nhân).
Tuy đa số những nạn nhân này là từ các nước đang phát triển (như Việt Nam), nhưng cũng có một số ít từ các nước tiên tiến. Theo một thống kê chỉ tính riêng ở Đức có khoảng 5.000 nhà khoa học công bố trên các tập san dỏm. Không ai biết có bao nhiêu nhà khoa học Việt Nam đã là nạn nhân của kỹ nghệ xuất bản dỏm, nhưng chỉ cần xem qua nhóm OMICS (một nhóm ở Ấn Độ bị chính phủ Mỹ kiện ra tòa) thì con số là hàng trăm người”.
Do đó, đến lúc các cơ quan quản lý khoa học đưa ra danh sách những tạp chí được công nhận và những tạp chí không đủ tiêu chuẩn để tránh tình trạng thật giả lẫn lộn.