Trong cuộc chiến biên giới 1979, chiến trường Vị Xuyên diễn ra cực kỳ khốc liệt. Các chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam mà đa số là lính trẻ, đã anh dũng chiến đấu với tinh thần quyết tử, khiến quân xâm lược phải chùn bước.
Cuộc chiến bảo vệ biên giới Vị Xuyên bắt đầu từ cao điểm 1509, mà Trung Quốc thường gọi là cuộc chiến Lão Sơn, hay là trận chiến Núi Đất. Trung Quốc đã sử dụng một lực lượng khổng lồ tràn qua biên giới. Như một cựu binh Sư đoàn 313 từng nói: “Đó là kiểu lấy thịt đè người, lấy 10 đánh 1”. Đỉnh 1509 cùng một số điểm cao thấp hơn đã bị lấn chiếm. Đến tháng 9-1989, sau khi chiến sự 2 bên chấm dứt, quân Trung Quốc đã rút khỏi các cao điểm bị chiếm đóng này.
Điểm cao 1509
Điểm cao 1509 là một đỉnh nằm trong dãy núi chạy sát biên giới Trung Quốc, thuộc huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Đường biên giới Việt – Trung chạy qua đỉnh núi này. Đây là vị trí có khả năng khống chế khu vực bờ bắc suối Thanh Thủy cho đến cửa khẩu Thanh Thủy phía đông sông Lô.
Điểm cao này có 3 mỏm chính, mỏm 1 ở đỉnh cao nhất của ngọn núi, mỏm 2 còn gọi là đồi cây khô (các cựu binh kể lại, lúc chưa xảy ra chiến sự, từ cao điểm 468 mọi người đã có thể nhìn thấy một thân cây khổng lồ cỡ chục người ôm, sau đó đã bị đạn pháo gọt trụi), và mỏm 3 ở bình độ 1450. Phía nam của điểm cao này là các bình độ 1400, 1200, 1100, 1000, 900, 800. Phía đông nam là bản Nậm Ngặt, tây nam là điểm cao 1545, phía chính đông là cao điểm 772, nơi một thời từng được mệnh danh là “cối xay thịt”, hay “đồi thịt băm” trong cuộc chiến 1984-1989..
Sau chiến tranh biên giới 17/2/1979, ta đã đưa bộ đội lên chốt giữ trên 1509. Thời điểm quân Trung Quốc tràn sang lấn chiếm sáng ngày 28/4/1984, đơn vị phòng ngự là Đại đội bộ binh 6, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 122, Sư đoàn 313. Đối mặt với một lực lượng xâm lấn đông gấp 10 lần, các chiến sĩ trẻ đã tổ chức phòng ngự kiên cường, đánh lui nhiều đợt tấn công của địch. Tuy nhiên, vì quân Trung Quốc quá đông, hỏa lực bắn không tiếc đạn, chúng ta phải rút về phía sau phòng ngự.
Đây là một cuộc chiến thể hiện tinh thần chiến đấu kiên cường, dũng cảm của các chiến sĩ trẻ bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Cuộc tử chiến trên đỉnh 1509 đã chặn đứng bước tiến công của sư đoàn 40, quân đoàn 14, đại quân khu Côn Minh, Trung Quốc, buộc quân xâm lược phải chững lại và thay đổi chiến lược, chiến thuật.
Bản thân cái tên “Núi Đất” hay Lão Sơn vốn cũng không có thật, chỉ là cách gọi của Trung Quốc, vì khu vực 1509 không có tên riêng, chỉ có số hiệu của các điểm cao trong một dãy núi dài chạy sát biên giới Trung Quốc của tỉnh Hà Giang.
Tuy nhiên, với những chiến sĩ trở về sau cuộc tử chiến, điểm cao 1509 còn được gọi với cái tên riêng trìu mến: “Đất Mẹ”. Với họ, đó là lãnh thổ Việt Nam, và một tấc đất cũng không thể để mất vào tay quân xâm lược. Và họ tự hào rằng, được tham gia cuộc chiến bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đó là niềm vinh dự của những người lính, dù phần lớn những người lính này tuổi đời còn rất trẻ, và tham gia quân ngũ chưa lâu.
Trên mạng, tài liệu ngụy tạo "của cục phòng vệ Nhật Bản" và một số bài viết khác nói rằng từ 1509 Trung Quốc có thể khống chế miền Bắc Việt Nam, gây suy nghĩ hoang mang cho nhiều người. Điều đó hoàn toàn giả dối. Thực tế thì phía nam suối Thanh Thủy, đối diện và cách 1509 chỉ 2-3km là dãy núi Tây Côn Lĩnh với độ cao trên dưới 2000m (cao nhất gần 2500m), không khác gì tấm lá chắn của Hà Giang. Với vị trí như vậy, dù Trung Quốc có mang gì lên 1509 cũng không có cửa với Hà Giang chứ đừng nói tới cả miền Bắc. Và cho đến hiện tại, điểm cao 1509 đã được khôi phục đúng như trạng thái vốn có trước năm 1979.
Cao điểm 1509 - núi Đất.
Tại sao quân Trung Quốc lại chọn mảnh đất biên cương Hà Giang, nơi chỉ toàn đá và đá, cheo leo hiểm trở, để làm mục tiêu xâm lấn lãnh thổ Việt Nam trong cuộc chiến 1984-1989, chứ không phải ở biên giới Lạng Sơn hay Cao Bằng như cuộc chiến tranh biên giới 1979?
Một số cựu binh từng trải qua cả 2 cuộc chiến chống lại quân xâm lược Trung Quốc cho rằng, Đặng Tiểu Bình vẫn chưa nguôi nỗi đau thất bại trong cuộc chiến 1979. Và sau quá trình 5 năm thực hiện chính sách hiện đại hóa quân đội, chúng lại quyết tâm xâm lấn lãnh thổ Việt Nam một lần nữa.
Đầu năm 1979, Đặng Tiểu Bình cùng phái đoàn Trung Quốc sang thăm Mỹ nhằm bình thường hóa quan hệ hai nước. Ngay sau đó, chúng chỉ đạo “dạy cho Việt Nam một bài học” vì đã đưa quân đánh đuổi chế độ diệt chủng Khmer Đỏ ở Campuchia, một đồng minh thân cận của Trung Quốc.
Ngày 17/2/1979, quân Trung Quốc ổ ạt tràn qua 6 tỉnh biên giới phía Bắc, nhưng chỉ được một thời gian ngắn, đến ngày 4/3/1979, chúng đã phải nhanh chóng rút quân trở về nước sau những thất bại nhục nhã và trước sự chống trả quyết liệt của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Cho đến đầu năm 1984, nhằm hỗ trợ cho các nhóm phiến quân Khmer Đỏ đang loay hoay tìm cách nổi lên tại biên giới Thái Lan Campuchia, và nhằm trả mối hận thất bại 5 năm trước, quân Trung Quốc lại tràn sang biên giới nước ta một lần nữa.
Nhiều cựu binh khẳng định, có khả năng là chúng chọn biên giới Vị Xuyên, Hà Giang, vì những địa điểm này xa các trục đường chính, việc vận chuyển đi lại của ta gặp nhiều khó khăn. Một mặt khác, về phương diện thông tin thì đây là một vùng biên cương xa xôi hẻo lánh, thời đó cũng ít người biết đến. Nếu không, chúng sẽ bị cả thế giới lên án.
Ngày 2/4/1984, quân Trung Quốc bắt đầu tiến hành bắn phá, trút xuống hàng chục ngàn quả đạn pháo xuống toàn bộ khu vực biên giới Vị Xuyên, đặc biệt là các điểm 1545, 1509, 685, 772, 1030, 400… và một số cao điểm phía đông sông Lô. Suốt hơn 3 tuần lễ, ngày nào địch cũng bắn phá ác liệt, nặng nhất vẫn là trên điểm cao 1509.
Lính Trung Quốc chết như ngả rạ
Theo ký ức của cựu binh Đỗ Minh Sáng, Đường Minh Tuấn (Sư đoàn 313), thì những ngày đầu tháng 4, pháo Trung Quốc bắn lên điểm cao 1509 rát lắm. Các chiến sĩ chốt giữ phải ăn gạo sấy thay cơm. Không ai được tắm. Phải đi bộ gần tiếng đồng hồ mới xuống được phía dưới để lấy nước, mà trên đường đi mất mạng như chơi.
Pháo Trung Quốc từ biên giới bên kia bắn sang không theo một quy luật nào cả. Có ngày từ sáng đến trưa chúng bắn cầm canh từng quả một, nhưng đến chiều lại dội xuống một lúc cả ngàn quả, khói bụi mịt mù, các chiến sĩ chốt giữ ai nấy tai ù điếc đặc.
Cựu binh Đường Minh Tuấn (Hương Canh, Vĩnh Phúc) là một trong những người chốt giữ trên điểm cao 1509 từ năm 1981, có nhiệm vụ quan trắc tính toán tọa độ bắn cho cho pháo binh ta bắn yểm trợ bảo vệ cao điểm nếu bị Trung Quốc tấn công. Kể về câu chuyện pháo Tàu bắn ròng rã suốt hơn 3 tuần lễ lên các điểm chốt giữ của bộ đội ta, ông nhận định: “Bên cạnh mục tiêu phá hoại các trận địa, thì việc chúng bắn pháo liên miên, lúc nhiều lúc ít chính là để nhằm gây ức chế, căng thẳng tột độ cho tất cả mọi người”.
Da thịt đồng đội hòa vào với đất.
Cấp trên nhận định địch có thể tiến công bộ binh bất cứ lúc nào. Cả tháng trời, mỗi đêm ai nấy chỉ ngủ được tầm 2 tiếng. Trên đỉnh 1509, mọi người thay nhau canh gác, chia thành các tổ, chỉ cần nghe thấy có tiếng loạt soạt ở bất cứ đâu là được lệnh bắn liền, bởi bọn thám báo Trung Quốc trong những ngày này hoạt động liên tục, tìm mọi cách mò lên đỉnh núi nắm tình hình phòng thủ của Đại đội 22.
Đúng 5h sáng ngày 28/4/1984, pháo Trung Quốc bắn dồn dập lên cao điểm. Lần này, chúng bắn rát hơn hẳn, ai nấy chỉ còn nghe thấy tiếng "ục, ục", một mớ âm thanh hỗn tạp cùng đất đá, mảnh đạn ném rào rào vào trong hầm, khói bụi mù mịt. Dự đoán bộ binh Trung Quốc sắp tấn công, mọi người giữ vững vị trí sẵn sàng chiến đấu.
Khoảng hơn tiếng đồng hồ, tiếng pháo thưa dần, Trung Quốc lại chuyển sang bắn pháo giấy (loại pháo chỉ có tiếng nố trên không, không gây sát thương, mục đích hù dọa để mở đường cho bộ binh tiến công). Cựu binh Đường Minh Tuấn chạy ra khỏi hầm quan sát, chỉ thấy pháo địch cày nát cả trận địa phía trước, khu rừng trúc trên đỉnh 1509 trước xanh mướt, giờ thì chẳng còn gì.
Bên phía mỏm 1 do trung đội 3 chốt giữ, nghe rõ tiếng của Trung đội trưởng Đỗ Minh Sáng quát rất rõ nhắc anh em vào vị trí chiến đấu. Bên mỏm Cây Khô có tiếng súng AK và tiếng đại liên, lựu đạn nổ liên tục, địch đã tiến đánh lên vị trí ấy.
Qua ống nhòm, phía trước mặt cựu binh Đường Minh Tuấn liên tiếp xuất hiện những tốp người lố nhố, đi theo đội hình kéo dài, thi nhau tràn lên đỉnh 1509.
“Chúng quá đông, chắc phải cỡ trung đoàn. Địa hình nhỏ bé thế mà cứ chen chúc, xô đẩy nhau kiểu như chạy loạn ấy. Chúng tôi thấy đi đầu là tốp áo đen của dân công, mãi phía sau mới thấy xuất hiện các tốp lính chuyên nghiệp với quân phục xanh lét, nhìn rất rõ. Kiểu như chúng đẩy các tốp dân công lên trước làm bia đỡ đạn hay sao ấy.
Trước khi xảy ra chiến sự, trên đỉnh 1509 nhìn qua đất Trung Quốc, chúng tôi thấy vẫn cực kỳ lặng lẽ, không có những trại lính, không thấy có nhiều phương tiện chiến tranh, dân cư bên ấy vẫn sinh hoạt bình thường, không xảy ra các cuộc tranh chấp lẻ tẻ về đường biên trên đỉnh núi. Có vẻ như quân Trung Quốc đã lặng lẽ đào hầm hào, công sự lên tới gần đỉnh núi để mở đường cho bộ binh lên xâm lấn”, ông Tuấn hồi tưởng.
Nói về cuộc tấn công lên đỉnh 1509 của quân Trung Quốc, cựu binh Nguyễn Văn Hùng (Sơn Dương, Tuyên Quang) nhớ lại: “Miêu tả thế nào nhỉ, không phải nói quá nhưng lính Trung Quốc đông như kiến cỏ, đến mức mà cứ mỗi quả ĐKZ tôi phóng xuống, phải dọn sạch cỡ một trung đội. Nhưng vừa bắn xong, xác lính Trung Quốc bị hất tung lên, còn chưa kịp rơi xuống thì ngay vị trí vừa bắn ấy, quân địch đã lại đông đặc bâu kín, lớp này lớp khác, như là sóng nước ấy”.
Cho đến hiện tại, các đồng đội vẫn gọi ông Hùng với cái tên thân mật "Hùng ĐK", vì thành tích bắn ĐKZ trên đỉnh 1509 vào những ngày 32 năm trước. Ông Hùng bắn cỡ vài chục quả, diệt địch nhiều quá, không đếm được.
Ở trên đỉnh núi, không thể kê súng lên kệ như cách thông thường, ông Hùng cứ thế bê ĐKZ lên vai bắn xuống, bắn đến nỗi 2 lỗ tai điếc đặc ngẩn ngơ. 32 năm sau, giữa thời bình, ảnh hưởng của cuộc chiến vẫn khiến các đồng đội nhiều lúc phải nói thật to bên tai, cựu binh Nguyễn Văn Hùng mới có thể nghe thấy.
Với ông Hùng, những ký ức trên 1509 vẫn còn ám ảnh, đến cả trong giấc mơ. Trở về sau cuộc chiến, nhiều đêm ông trằn trọc không ngủ được vì thương nhớ đồng đội, vì những ký ức bi hùng trong trận tử chiến. Có những khi, người nhà bỗng thấy ông Hùng bật dậy giữa đêm khuya, hô lớn: “Bắn, bắn đi, quân Trung Quốc đến rồi, bắn cho bằng hết bọn xâm lược hung bạo này…”.
Quay trở lại câu chuyện về cuộc tấn công đầu tiên lên đỉnh 1509, cựu binh Đường Minh Tuấn kể tiếp: Ngay khi thấy lính Tàu tràn sang, mọi vị trí chốt giữ thi nhau nhả đạn, phía dưới là những cột khói đen trùm lên, bốc cao nghi ngút, kèm theo đó là những bóng đen bị hất tung lên, rơi xuống nằm bất động. Lúc này, ở các trận địa phối hợp, ta cũng phát hỏa đánh trả, pháo 105 ly, cối 82 ly, H12 đồng loạt bắn tới tấp. Trận địa cối từ bình độ 1200 và của Trung đoàn 457 đặt ở Nậm Ngặt bắn vào đội hình địch rất chính xác.
Quân Trung Quốc thương vong vô số, kêu la náo loạn ở phía dưới. Những tốp đi đầu tập trung lại và tiến vào đường hào hình râu tôm có sẵn trên đỉnh 1509, nhưng ngay tức khắc tan xác do mấy quả mìn của một chiến sĩ tên Thủ cài sẵn, cộng thêm hỏa lực của các chiến sĩ khác, vài trung đội địch ra đi sạch sẽ.
Lính Tàu không dám xông lên nữa trước sự chống trả quyết liệt của bộ đội ta. Cuộc tiến công đầu tiên lên đỉnh 1509 thất bại thảm hại, chúng kêu la ầm ỹ, gọi pháo và các loại hỏa lực khác bắn trùm lên các trận địa chốt giữ, phía các chiến sĩ đã bắt đầu có thương vong.
Ký ức bi hùng
Nhắc lại đợt tấn công thứ 2 của quân Trung Quốc trên cao điểm 1509 (Vị Xuyên, Hà Giang) ngày 28/4/1984, cựu binh Đường Minh Tuấn (Trung đoàn 122, Sư đoàn 313) cho biết: “Hơn 9h sáng, chúng dội pháo như mưa, tưởng như sẽ san phẳng đỉnh núi, rồi kéo hết quân số lên từ mọi ngả định tấn công tổng lực”.
Chỉ 1 đại đội (quân số chưa đến 100 người) quyết đấu với một lực lượng gấp hàng chục lần tràn lên đỉnh núi, quá đông và hung hãn, nhưng các chiến sĩ chốt giữ không ai chịu lùi bước, quyết bắn đến viên đạn cuối cùng.
Cựu binh Đỗ Minh Sáng khẳng định: “Cuộc tấn công của quân Trung Quốc trong ngày 28/4/1984 trên đỉnh 1509 dù lấn chiếm được một số vị trí nhưng tổn thất về quân số thì không thể kể hết. Quân Trung Quốc đã phải kinh hoàng trước khả năng phối hợp chiến đấu và tinh thần kiên cường gan dạ của bộ đội Việt Nam”.
Ở đợt tấn công thứ 2, bên phía các chiến sĩ Đại đội 22 đã bắt đầu có thương vong. Khẩu đại liên do bộ binh tên Hải (Tuyên Quang) và trung đội trưởng Đỗ Minh Sáng đang bắn kịch liệt xuống phía dưới thì bị trúng đạn pháo của địch. Ông Hải hy sinh, ông Sáng bị mảnh đạn găm vào đầu. Ông Sáng băng bó và nén đau tiếp tục chỉ huy chiến đấu.
Mỏm 1 gần đỉnh 1509 vẫn còn nguyên vẹn, nhưng phía đơn vị chốt giữ trên mỏm Cây Khô quân Trung Quốc đã tràn sang lấn chiếm. Ông Sơn, Trung đội trưởng Trung đội 1 chốt giữ ở đó với hơn chục chiến sỹ đã hy sinh. Ngay sau đó, Đại đội 23 đã tiến lên hỗ trợ trên đỉnh. Địch co cụm lại, không còn tấn công ào ạt như lúc đầu nữa mà chia thành nhiều mũi đánh lên.
Hài cốt hàng ngàn người lính vẫn còn lẫn trong đất ở chiến trường Vị Xuyên.
Cựu binh Đường Minh Tuấn đang xách khẩu AK tỳ vào vách chiến hào lia cả băng về phía trước, bỗng phát hiện ra một tốp 5 tên lính đang lom khom chui qua gốc cây đổ phía dưới, tức khắc chĩa AK bắn tới tấp. Tốp lính đang loay hoay ẩn nấp không ngóc đầu lên được, thì ở gần đó, một chiến sĩ tên Thạch phóng thẳng xuống quả đạn B41, để lại một luồng lửa, cả 5 tên tan xác.
Một quả ĐH 10 (mìn kleymo) bị pháo Trung Quốc bắn văng ra khỏi chiến hào. Chiến sĩ chốt giữ tên Thủ lặng lẽ bò ra lấy lại và cài sẵn trên miệng hào, nằm im chờ cho lính Trung Quốc bò lên đông, lại gần anh mới phát hỏa. Khi mìn nổ xong, mấy anh em chiến sĩ mò ra xem thì thấy sườn đồi không bóng giặc, chỉ còn nghi ngút khói đen.
Ông Tuấn nấp trên đỉnh 1509 bắn xuống hết cả mấy băng đạn, rồi lấy khẩu AK của đồng đội đã hy sinh gần đó bắn tiếp. Ngay lúc đó, chiến sỹ tên Khoát (Vĩnh Phúc) của Đại đội 23 vác khẩu đại liên vừa lên đến nơi, liền dõng dạc tuyên bố: “Vị trí này đẹp, đồng hương để cho tôi chỗ này”, rồi bóp cò liên hồi tưởng như chưa bao giờ được bắn.
Đợt tấn công thứ 2 của quân Trung Quốc bị chặn đứng, lính Tàu dù xua quân tổng lực nhưng vẫn không thể tiến lên nổi, chúng hô hào tản ra xung quanh và tiếp tục gọi pháo kích.
Một trận pháo ác liệt trùm lên đầu các chiến sỹ chốt giữ, những tiếng “xoẹt…oành…” nổ đinh tai nhức óc. Tiếng đạn ĐKZ và B41 của địch bắn trượt rít qua mặt mọi người, pháo nổ liên hồi, nhưng toàn bộ anh em vẫn không ai chịu vào hầm tránh đạn, giữ nguyên vị trí chờ quân Trung Quốc tiến lên để tiêu diệt.
Một quả cối 100 ly nổ ngay trên nóc chiến hào nơi cựu binh Đường Minh Tuấn đang ẩn nấp. Viên đạn nổ khiến ông Tuấn choáng váng, máu trong mồm và mũi chảy ra. Vị trí mà chiến sĩ Khoát đặt khẩu đại liên cách đấy tầm chục mét cũng bị đạn cày xới. Ông Khoát hy sinh khi bị một quả ĐKZ của quân Trung Quốc bên phía đồi Cây Khô bắn sang.
Trung đội trưởng Đỗ Minh Sáng tiếp tục bị thương lần thứ 2 khi đang chiến đấu cùng đồng đội trên mỏm 1. Ông bị một viên đạn xuyên qua bả vai. Chỉ còn một cánh tay lành lặn nhưng vẫn kiên quyết không lùi ra phía sau, tiếp tục chỉ huy anh em chống trả quyết liệt.
Quân Trung Quốc tiếp tục tổ chức đợt tấn công thứ 3 lên đỉnh 1509. Lần này, chúng đưa cả xe ô tô chở quân áp sát vào trận địa, quyết đánh bằng được. Chúng chia làm 2 mũi tấn công lên cao điểm 1509.
Bên phía Việt Nam, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 ra lệnh cho Đại đội 5 đưa lực lượng lên phối hợp phản kích. Hai bên quần thảo, giằng co nhau hàng tiếng đồng hồ trên đỉnh một ngọn núi nhỏ.
Lần này, quân Trung Quốc đã tràn lên được mỏm 2, các chiến sỹ chốt giữ trên mỏm lao vào đánh giáp lá cà với giặc. Đại đội trưởng Đại đội 6 Trần Ngọc Thông (Ý Yên, Nam Định) đang chiến đấu cùng với ông Đường Minh Tuấn và đồng đội ở mỏm 1, thấy mỏm 2 bắn nhau ác liệt quá, tức khắc lao xuống chỉ huy anh em chiến đấu.
Thấy quân Trung Quốc tràn lên đông quá, bên phía mình thương vong cũng khá nhiều, ông Thông ra lệnh cho các đồng đội rút xuống bảo toàn lực lượng, còn bản thân mình thì ở lại. Ông gọi lớn qua đường dây thông tin liên lạc: “Trận địa 105 cứ bắn vào đầu chúng tôi đi, địch ở xung quanh chúng tôi rồi”.
Lúc đó, ta có 2 khẩu cối 120 bố trí ở Bình độ 1200 bắn lên yểm trợ rất tốt, nhưng đến trưa thì không bắn được vì bàn đế bắn nhiều nên lún sâu xuống đất, nòng bị nóng. Pháo 105 của Trung đoàn 457 đặt ở Nậm Ngặt, không còn mãnh liệt như lúc sáng vì việc vận chuyển đạn dược cực kỳ khó khăn.
Đúng lúc ấy, quân Trung Quốc lại tập trung bắn cối 60 và ném lựu đạn như mưa. Đại đội trưởng Trần Ngọc Thông ngã xuống khi mới 27 tuổi. Ở gần đó, xạ thủ B41 Cao Xuân Chiêu bắn tới 17 quả đạn và cũng đã hy sinh tại trận địa.
“Cho đến quá trưa, quân Trung Quốc đã tràn hết lên mỏm 2 và mỏm Cây Khô trên đỉnh 1509, riêng mỏm 1 vẫn được giữ vững. Lúc đó, anh em chúng tôi chỉ còn một ít đạn AK, lựu đạn có mấy thùng đã quăng hết. Trong khi đó, hỏa lực chi viện của chiến trường không lên được đến đỉnh vì địch bắn chặn mọi ngả đường tiếp tế. Địch lại chuẩn bị mở một đợt tấn công mới. Trung đội trưởng trung đội 3 báo cáo xin lệnh của cấp trên và được đồng ý cho rút lui khỏi trận địa, chờ dịp phản kích”, cựu binh Đường Minh Tuấn nhớ lại.
Những âm mưu thâm độc
Nhớ lại thời khắc sinh tử trên điểm cao 1509, cựu binh Đỗ Minh Sáng cho biết, lúc ấy trên các mỏm, sau nhiều lần đánh bại các đợt tiến công của quân Trung Quốc, thì đến đầu giờ chiều, lính Tàu lại tiếp tục đưa xe tải chở quân đến, dồn quân số quyết tâm tràn lên đỉnh núi một lần nữa, bất chấp trước đó chúng đã bị thương vong như ngả rạ.
Sau khi kiểm tra lại lực lượng, nắm tình hình địch, được lệnh của tiểu đoàn, Đại đội 6 tổ chức rút quân về phòng ngự tại khu vực bình độ 1100, chờ lệnh phản kích. Quân Trung Quốc mặc dù tràn qua được 3 mỏm trên đỉnh 1509, nhưng ở những bình độ khác, các chốt phòng ngự của bộ đội Việt Nam vẫn vững như bàn thạch.
Còn cựu binh Vũ Tân Long (Sư đoàn 313, Bắc Quang, Hà Giang) cho biết: "Ngày đó, cả một dải bình độ từ 1509 trở xuống, anh em chúng tôi luân phiên canh giữ. Mặc dù hỏa lực địch bắn phá dữ dội, có thời điểm chúng dùng cả đầu đạn pháo đinh (loại đạn sát thương hàng loạt, bị quốc tế cấm), nhưng chúng tôi vẫn kiên trì bám trụ. Các bình độ sau này như 1100,1000, 800, 500, vô cùng khốc liệt, được diễn tả: đất tơi như bột, khi bị gió cuốn bay mù mịt. Mảnh đạn pháo nằm ngổn ngang, mìn gài ngoài bờ hào, sau trận pháo kích bay cả vào hầm, vào lòng hào. Sự ác liệt lên đến tột đỉnh".
Đạn pháo vẫn còn đầy ở biên giới Vị Xuyên.
“Từ sáng chúng tôi mải đánh nhau với địch, chống trả các đợt tiến công, nên cũng chẳng biết lúc đấy là mấy giờ, chỉ thấy ánh mặt trời đã chuyển sang phía tây điểm cao 1545, chắc cũng phải sang buổi chiều. Lúc đó quân Trung Quốc lại chuẩn bị tiếp một đợt tấn công mới, tăng cường quân đứng chen chúc dưới chân đồi. Được lệnh rút chờ phản kích, tôi thấy anh em vừa bắn vừa rút xuống phía dưới qua mỏm 2. Bên đó, anh Thọ, chính trị viên Đại đội là người rút cuối cùng. Khi địch tràn lên chiến hào, anh dùng AK quạt liên hồi bắn cản chúng lại.
Giặc tràn lên phía mỏm Cây Khô cũng bị 2 chiến sĩ đặt trung liên RPD bắn như mưa xuống phía dưới, những bóng người liên tiếp gục xuống, nhưng chúng cậy đông quân vẫn cứ tiến. Tôi và một người đồng đội tên Hùng lao vào vách chiến hào, thì một viên đạn sượt qua vành tai tôi xiên thẳng vào lưng bên trái của Hùng. Người đồng đội ấy hi sinh, nòng súng AK chống xuống đất, người quay lại hướng về trên đỉnh 1509. Có lẽ cậu ta muốn nhìn thấy đất mẹ, nơi mình đã sống, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng”, cựu binh Đường Minh Tuấn ứa nước mắt khi kể về buổi chiều của 32 năm trước.
Trong những năm 1985-1986, quân Trung Quốc lần lượt mở thêm nhiều cuộc tấn công vào các điểm cao của ta ở mặt trận Vị Xuyên nhưng đều lần lượt bị đẩy lùi. Đầu năm 1987, Trung Quốc tiếp tục sử dụng lực lượng cấp sư đoàn mở chiến dịch tiến đánh 13 điểm tựa của ta ở cả phía đông và tây sông Lô. Chúng bắn cả trăm ngàn quả đạn pháo và chi viện bộ binh liên tục tấn công nhưng đều bị ta ngăn chặn ngay trước trận địa.
Từ sau thất bại đó, phía Trung Quốc giảm dần các hoạt động tấn công lấn chiếm. Từ cuối tháng 12/1988, Trung Quốc bắt đầu ngừng bắn phá và từ tháng 3 đến tháng 9/1989 lần lượt rút quân khỏi các vị trí chiếm đóng còn lại trên lãnh thổ Việt Nam.
Khi đường biên giới được trả lại nguyên trạng như ở thời điểm trước năm 1979, các cựu binh Đại đội 6 rất muốn được lên thăm lại chiến trường xưa, nơi mà mình đã trải qua những thời khắc sinh tử trong cuộc tử chiến bi hùng, tuy nhiên, người dân bản địa đã ngăn lại, một phần vì đồi dốc hiểm trở, phần khác còn rất nhiều bom mìn còn găm lại, chực chờ phát nổ, có thể gây nguy hiểm bất cứ lúc nào.
Dân bản địa khi đi rừng, tìm lên đỉnh 1509, nhiều người đã bị trúng mìn, cụt tay, cụt chân, thương vong. Đỉnh 1509 đã phủ màu xanh, được khôi phục lại như trước khi có chiến tranh, và lãnh thổ Việt Nam vẫn được giữ vững.
Một số thông tin bịa đặt trên mạng kể rằng, Trung Quốc đã xây dựng một đài tưởng niệm những người lính hi sinh ngay trên đỉnh 1509 trong ngày 28/4/1984, và mở cửa cho du khách đến tham quan. Điều đó hoàn toàn giả dối, gây dư luận đồn đoán.
Chúng tôi đã tiến hành xác minh và biết rằng cái đài tưởng niệm đó là có thật, nhưng được xây lùi vào bên trong lãnh thổ Trung Quốc, dưới chân núi, và đó là việc riêng của họ.
Đứng ở bình độ 1100, 772, 685 nhìn lên, đỉnh 1509 vẫn lặng lẽ, phủ một màu xanh ngắt, không một bóng người. Nếu như chưa được nghe kể lại, có lẽ nhiều người sẽ khó hình dung về một trận tử chiến khốc liệt diễn ra trên đỉnh núi này 35 năm trước.
Điều mà các cựu binh Đại đội 6 luôn trăn trở, đó là số phận của những đồng đội mình đã bị thương trong trận đánh ngày 28/4 đó. Cựu binh Đỗ Minh Sang, Đường Minh Tuấn cùng các đồng đội kể lại, anh em chốt giữ bị thương và hy sinh cũng tương đối nhiều. Những chiến sĩ còn lành lặn đưa họ vào nằm ở hầm chỉ huy ở mỏm 2 trên đỉnh 1509, chờ quân tiếp viện đánh lên và đưa xuống hậu phương chữa trị, còn lại đều cầm súng chiến đấu chống trả các đợt tấn công của quân Trung Quốc. Tuy nhiên, khi quân tiếp viện chưa lên kịp, giặc đã tràn qua phủ kín mỏm 2, anh em thương binh không kịp di chuyển, vẫn còn nằm lại hết ở đó. Và cho đến giờ không một ai nhìn thấy họ nữa, được coi như đã mất tích. Đó vẫn luôn là nỗi đau khôn nguôi của những người lính trở về sau cuộc chiến.
Chỉ có duy nhất 1 người lính là còn gặp lại, đó là cựu binh Lê Trọng Tấn (Tiền Phong, Mê Linh, Hà Nội). Ông Tấn kể rằng, ông vốn ở đài trinh sát pháo binh, chiến đấu chống giặc ở mỏm 1 (mỏm cao nhất 1509). Nhưng buổi trưa hôm đó, thấy địch tràn lên mỏm 2 đông quá, ông Tấn vác súng nhảy xuống hỗ trợ đồng đội. Một quả đạn pháo nổ ngay bên cạnh hầm chỉ huy, mảnh đạn găm thẳng vào đùi khiến ông Tấn ngất xỉu.
Khỉ tỉnh dậy, ông Tấn mới biết mình đang nằm sâu trong nội địa Trung Quốc, tin tức về cuộc chiến và các đồng đội đều bặt tăm. Sau đó là 16 tháng ròng rã trong lòng địch, chịu đựng đủ các kiểu từ tra tấn đến dụ dỗ, cựu binh Lê Trọng Tấn ý chí vẫn giữ vững như bàn thạch.
Năm 1985, Trung Quốc trao trả ông Tấn ở biên giới Lạng Sơn. Trong khi cũng vào thời điểm đó, lính Tàu lại đẩy mạnh việc lấn chiếm các các điểm của biên giới Vị Xuyên, nhất là ở cao điểm 685 – được mệnh danh là "Lò vôi thế kỷ".
Đánh mãi không thể tiến lên nổi ở Mặt trận Vị Xuyên, lính chết lên đến con số hàng ngàn, lòng quân xao động trước sự dũng cảm kiên cường và mưu trí của các chiến sĩ, Trung Quốc lại bất ngờ đánh úp đảo Gạc Ma ngày 14/3/1988, đánh chìm tàu HQ604, 64 chiến sỹ hải quân đã nằm lại nơi biển đảo Tổ quốc không thể trở về.
Ngồi trò chuyện với chúng tôi, kể về trận tử chiến 32 năm trước trên đỉnh 1509, những người cựu chiến binh Sư đoàn 313, Mặt trận Vị Xuyên nói rằng: Cuộc chiến mà họ tiến hành chống lại âm mưu xâm lược của quân Trung Quốc, phải được mọi người dân Việt Nam biết đến. Điều đó như một lời nhắc nhở hãy luôn cảnh giác với kẻ thù bành trướng phương bắc.
(Tham khảo tài liệu ký ức Đất mẹ, lời kể của cựu binh Đỗ Minh Sáng, Đường Minh Tuấn, cùng các đồng đội Sư đoàn 313, Mặt trận Vị Xuyên)
Video: Cuộc tấn công Việt Nam 1979 là một phần chiến lược lớn hơn của Trung Quốc