Là người may mắn nhiều lần được trực tiếp phiên dịch cho Fidel, nay hiệu đính các bản dịch nên tôi có dịp đọc tất cả các phát biểu của ông. Tôi vô cùng xúc động, đặc biệt khi đọc những bài đã được trực tiếp nghe… Tôi như được sống lại những giờ phút ấy! Giọng nói sang sảng, hùng hồn, phong thái uy nghi nhưng rất đỗi quen thuộc của Fidel mỗi khi diễn thuyết, những hình ảnh, âm thanh sống động cùng các cảm xúc mãnh liệt sống lại trong tôi!
Tác giả (thứ hai từ bên phải) là phiên dịch khi đoàn lãnh đạo Việt Nam tiếp đón Chủ tịch Fidel Castro ngày 12/9/1973 tại sân bay Gia Lâm.
Đọc toàn bộ phát biểu của Fidel thấy rõ trong hơn bốn thập niên, vị lãnh tụ tối cao của Cách mạng Cuba đã luôn dõi theo từng bước cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam chống các thế lực xâm lược ngoại bang để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc; kịp thời lên tiếng tố cáo và kịch liệt lên án mọi âm mưu, hành động phi nghĩa, tội ác tày trời của quân xâm lược và bè lũ tay sai, báo trước thất bại không thể tránh khỏi của chúng; phân tích rõ, hết lòng ngợi ca và ủng hộ triệt để, kịp thời từng bước đấu tranh cũng như bày tỏ niềm tin tuyệt đối vào thắng lợi cuối cùng của nhân dân Việt Nam; nêu cao ý nghĩa quốc tế to lớn của cuộc chiến đấu đó; ca ngợi truyền thống oanh liệt và những phẩm chất tuyệt vời của dân tộc Việt Nam; kêu gọi các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ toàn thế giới đoàn kết, ủng hộ mạnh mẽ sự nghiệp chính nghĩa của Việt Nam.
Những phát biểu của Fidel luôn được hệ thống truyền hình, phát thanh và báo chí quốc gia phát trực tiếp và tuyên truyền rộng rãi, không chỉ ở Cuba mà cả quốc tế, nên là sự ủng hộ vô cùng quý giá đối với sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Tất cả vì Việt Nam
Có lẽ trong lịch sử thế giới, từ cổ chí kim, chưa có lãnh tụ quốc gia nào như Fidel, phát biểu ủng hộ Việt Nam trên gần 100 diễn đàn công khai ở Cuba và trên thế giới liên tục suốt 42 năm (1964-2005). Trong đó, 10 năm Mỹ xâm lược Việt Nam từ 1965-1975, ông đã phát biểu 66 lần, đặc biệt trong năm 1972 chiến tranh ác liệt nhất 19 lần để bày tỏ mạnh mẽ tình đoàn kết chiến đấu, sự ủng hộ hết lòng của cá nhân và dân tộc mình đối với sự nghiệp chính nghĩa của Việt Nam, quốc gia cách nửa vòng trái đất mà trước đó chưa hề có bang giao.
Ngay từ ngày 2/12/1964, Fidel đã sớm cảnh báo: “Đế quốc Mỹ…thực tế đã bị đánh bại nhưng vẫn hung hăng dọa dẫm, tuyên bố mở rộng chiến tranh… đe dọa can thiệp vào miền Bắc Việt Nam”. Thực tế đã xảy ra như vậy. Chỉ 3 tháng sau, tháng 2/1965, Mỹ đánh phá miền Bắc và tháng 3/1965 đổ quân vào miền Nam.
Chủ tịch Fidel Castro và Thủ tướng Phạm Văn Đồng cùng các anh hùng quân giải phóng miền Nam tại Quảng Trị năm 1973. (Ảnh: TTXVN)
Ngay sau đó, 3/3/1965, Fidel đã cực lực lên án Mỹ đang “tàn phá và giết chóc ở miền Nam Việt Nam, miền Bắc Việt Nam, phạm các tội ác không thua gì tội ác của Hitler, ném bom ồ ạt đất nước không ở trong tình trạng chiến tranh với chúng. Chúng ta tiếc không ở gần miền Bắc Việt Nam hơn để giúp họ với tất cả những gì chúng ta có. Tất cả các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) có nghĩa vụ không thể thoái thác ủng hộ và giúp đỡ nhân dân Việt Nam”.
Và chỉ 10 ngày sau, ông lại tố cáo: Mỹ “đang lợi dụng sự chia rẽ của những người cách mạng, lợi dụng sự bất hòa đáng tiếc của phe XHCN để đàn áp phong trào cách mạng ở miền Nam Việt Nam, ném bom miền Bắc. Lập trường của chúng ta chỉ có một. Đó là: phải dành cho Việt Nam tất cả sự hỗ trợ cần thiết, phải hỗ trợ bằng cả vũ khí và con người! Phe XHCN phải chấp nhận tất cả mạo hiểm cần thiết vì Việt Nam!”
Hơn 1 tháng sau, 19/4/1965, Fidel lại tố cáo: “Máy bay của Mỹ đang ném vô tội vạ bom Napalm, phốt pho trắng, chất độc hóa học xuống làng mạc và những vùng đã được các lực lượng yêu nước Việt Nam giải phóng. Rồi cũng bất chấp luật pháp như vậy, chúng vượt qua giới tuyến, tấn công miền Bắc Việt Nam, vi phạm các hiệp định quốc tế”.
Ông tái khẳng định: “Chúng ta đoàn kết bằng lời nói và hành động với nhân dân Việt Nam, cả miền Bắc và miền Nam Việt Nam… Chính phủ Cách mạng chúng ta đã tuyên bố rằng nếu nhân dân Việt Nam yêu cầu chúng ta sẵn sàng cho phép đi Việt Nam tất cả những ai muốn làm tình nguyện quân sang chiến đấu ở Việt Nam”.
Ngày 13/3/1966, Fidel lại khẳng định: “Chúng ta cho rằng khi Việt Nam bị tấn công thì sự chia rẽ trong phe XHCN đã phải ngừng lại… phải dành cho Việt Nam mọi sự hỗ trợ về lực lượng phòng không và không quân để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam, biến miền Bắc Việt Nam thành nghĩa địa máy bay Mỹ”.
Tổ quốc hay là chết
Ngày 2/1/1966, tại Quảng trường Cách mạng Jose Marti ở Thủ đô La Habana, trước nửa triệu quần chúng tham dự cuộc mít tinh kỷ niệm thắng lợi Cách mạng Cuba lần thứ bảy và chào mừng các đoàn đại biểu các nước Á, Phi, Mỹ La tinh tham dự Hội nghị Đoàn kết ba châu lần thứ nhất do Cuba tổ chức, Fidel đã dõng dạc tuyên bố: “Vì nhân dân Việt Nam, chúng ta sẵn sàng hiến dâng không chỉ đường mà còn cả máu của mình, là thứ còn quý giá hơn rất nhiều so với đường!”.
Tôi quên sao được giây phút xúc động run người khi dịch cho trưởng đoàn ta đang ngồi trên lễ đài lời tuyên bố hùng hồn đó của Fidel mà sau này đã đi vào lịch sử “Vì Việt Nam Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình”, trước tiếng vỗ tay và tiếng hô vang dậy “Việt Nam muôn năm!”, “Việt Nam nhất định thắng!” của biển người trước mặt.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp tặng lãnh tụ Cuba Fidel Castro huy hiệu "Chiến sỹ Điện Biên Phủ" nhân chuyến thăm của ông đến Việt Nam tháng 9/1973. (Ảnh: TTXVN)
Tròn 1 năm sau, cũng ngày 2/1, cũng bối cảnh và những xúc cảm tương tự, tại quảng trường lịch sử ấy, tôi lại được dịch lời tuyên bố của Fidel đặt tên năm 1967 là “Năm Việt Nam anh hùng!” giữa tiếng hoan hô rền vang và rừng cánh tay giơ lên trước mặt…
Ngày 17/7/1966, tại Hội nghị chính trị toàn quốc, Hồ Chủ tịch tuyên bố: “Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do”, kêu gọi toàn dân, toàn quân đoàn kết một lòng, quyết đưa sự nghiệp chống xâm lược Mỹ, cứu nước tới thắng lợi hoàn toàn. Chưa đầy 10 ngày sau, tại Quảng trường Jose Marti kỷ niệm ngày Khởi nghĩa vũ trang 26/7, Fidel đã dành nửa giờ phát biểu về Việt Nam, trích dẫn nhiều đoạn lời tuyên bố của Bác Hồ mà ông cho là “chắc chắn sẽ đi vào lịch sử” và bày tỏ sự ủng hộ hoàn toàn của Đảng, Chính phủ và nhân dân Cuba.
Một lần nữa Fidel khẳng định: “Việt Nam đã trở thành vấn đề của toàn nhân loại. Việt Nam là nơi đế quốc Mỹ đã tự lột trần hết dã tâm độc ác, phản động và man rợ của chúng. Chúng đã đi vào một đường hầm không lối thoát. Việt Nam đang tiến hành cuộc kháng chiến anh dũng nhất mà không một dân tộc nào từng biết đến trong đương đại, đã trở thành tấm gương độc đáo và nổi bật nhất về chủ nghĩa anh hùng, tấm gương cao quý nhất về tinh thần yêu nước và lòng quả cảm.Với cuộc chiến đấu của mình, nhân dân Việt Nam đang bảo vệ quyền được độc lập và tự do không chỉ của nhân dân Việt Nam mà còn của các dân tộc khác có thể là nạn nhân tiềm tàng của đế quốc Mỹ”. Fidel kết thúc bài phát biểu: “Chúng ta hãy dành ngày 26/7 này cho tình đoàn kết với nhân dân Việt Nam, cho các chiến sĩ anh hùng ở miền Bắc và miền Nam Việt Nam. Chúng ta cũng dành cho nhân dân Việt Nam câu khẩu hiệu của chúng ta: “Tổ quốc hay là chết! Chúng ta nhất định thắng!”
Niềm tin chiến thắng
Sau Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân, 31/3/1968, Tổng thống Mỹ Johnson tuyên bố đơn phương ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận nói chuyện với ta và không ra tranh cử nhiệm kỳ hai. Chỉ ít ngày sau, 19/4/1968, Fidel tuyên bố: “Rõ ràng quyết định này là kết quả của những thất bại thảm hại mà nhân dân Việt Nam đã gây cho chúng”.
Sau khi thăm Trung Quốc và ký Thông cáo chung Thượng Hải tháng 2/1972, Tổng thống Mỹ Nixon ra lệnh ném bom, bắn phá lại miền Bắc vô cùng ác liệt. Fidel càng thể hiện mạnh mẽ tình đoàn kết, ủng hộ Việt Nam. Ông đã 19 lần cực lực tố cáo cuộc chiến tranh hủy diệt của Mỹ, kêu gọi cả loài người tiến bộ ủng hộ Việt Nam. Đặc biệt, ông đã tranh thủ chuyến công du Algeria và 6 nước XHCN Đông Âu tháng 5 và 6/1972, phát biểu tại 14 mít tinh, chiêu đãi trọng thể chào mừng ông ở các nước để bày tỏ lập trường trước sau như một của Cuba đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam.
Fidel luôn có một niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng của nhân dân ta. Trong một cuộc mít tinh quần chúng ngày 30/7/1972, Fidel đã tuyên bố: “Chúng ta tin vào thắng lợi của nhân dân Việt Nam và càng ngày thắng lợi lại càng đến gần. Chúng ta đang chứng kiến những sự kiện cuối cùng. Rõ ràng, giờ đây Việt Nam đang và sẽ là một đất nước cần tình đoàn kết quốc tế nhất, không phải chỉ bây giờ mà cả khi đã giành thắng lợi, khi xây dựng lại đất nước đã bị bom đạn tàn phá với các hố bom có ở khắp mọi nơi… Chúng ta vui lòng thiếu đi 1 trường học, 1 bệnh viện hoặc thiếu đi 2, hoặc 3 hoặc số lượng thiếu cần thiết để giúp xây dựng ở Việt Nam”.
Đại sứ Nguyễn Đình Bin là cựu lưu học sinh tại Cuba, Nguyên Ủy viên TƯ Đảng khóa VIII, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao kiêm Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài, Phó Bí thư Đảng ủy khối các Cơ quan đối ngoại TƯ, Đại sứ tại Nicaragua kiêm nhiệm Ecuador và tại Pháp kiêm nhiệm Bồ Đào Nha.