Nhập thông tin
  • Lỗi: Email không hợp lệ

Đóng

Tự giác tu dưỡng, rèn luyện theo lời tuyên thệ

(VTC News) -

Đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực là để nâng cao tính chiến đấu của tổ chức Đảng, tăng cường rèn luyện và phát huy phẩm chất đạo đức của đảng viên.

Trong cuộc phỏng vấn với VTC News, PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc - nguyên Viện trưởng Lịch sử Đảng (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh), ông Nguyễn Đức Hà - nguyên Vụ trưởng Vụ Cơ sở Đảng (Ban Tổ chức Trung ương) cho rằng, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời gian qua, bên cạnh sự kiên quyết, không khoan nhượng, không có vùng cấm, còn thể hiện tính nhân văn sâu sắc.

Video: Đảng viên phải giữ được danh dự với đất nước, Nhân dân

 

- Hai ông có thể nêu những cảm nhận khái quát nhất về công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong giai đoạn 2011 - 2022?

PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc: Công tác phòng, chống tham nhũng đã được đặt ra rất sớm trong lịch sử hình thành và phát triển của Đảng ta. Phòng, chống tham nhũng luôn gắn liền công tác xây dựng Đảng.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, vụ tử hình nguyên Đại tá, Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu (năm 1950) là ví dụ điển hình trong công tác làm trong sạch Đảng.

Từ năm 2011 đến nay, công tác phòng, chống tham nhũng được Trung ương Đảng khóa XI chú trọng đẩy mạnh, mang lại kết quả rõ rệt hơn. Điều này thể hiện rõ nét trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 các khóa XI, XII, rồi XIII, và đặc biệt là Hội nghị tổng kết 10 năm phòng, chống tham nhũng 2012 - 2022.

Gần đây, Ban chỉ đạo Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh được thành lập. Chống tham nhũng, tiêu cực đã trở thành nhiệm vụ rất bức thiết của toàn Đảng và hệ thống chính trị với quyết tâm cao của Đảng là phải làm thường xuyên, liên tục và quyết liệt.

Đồng thời, Đảng cũng xác định việc thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Nghị quyết xây dựng, chỉnh đốn Đảng cần gắn liền củng cố kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kỳ ai dù ở cương vị nào mà tham nhũng, tiêu cực, đều phải xử lý nghiêm. Xử lý bằng cả hình thức kỷ luật trong Đảng và xử lý theo pháp luật của Nhà nước nếu vi phạm pháp luật.

Những vụ đại án đã xử trong 10 năm qua làm tránh được những tổn thất lớn của Đảng và Nhà nước về mặt kinh tế, thu hồi đáng kể tài sản, tiền bạc mà những người tham nhũng chiếm đoạt. Quan trọng hơn, nó củng cố được niềm tin trong Đảng, Nhân dân đối với cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, có ý nghĩa giáo dục, răn đe và hạn chế cán bộ, đảng viên sa ngã.

Như Hội nghị tổng kết 10 năm công tác phòng chống tham nhũng đã xác định, thời gian tới phải tiếp tục làm quyết liệt, bài bản hơn và rộng khắp trong toàn Đảng, ở tất cả địa phương.

Vừa qua, chúng ta mới tập trung các vụ án lớn mà Trung ương trực tiếp chỉ đạo, tới đây sẽ làm mạnh hơn ở các cấp, nhất là ở tỉnh, thành phố, kết hợp xử lý kỷ luật trong Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Với tinh thần như vậy, chúng ta đã xử lý cả những cán bộ cao cấp. Riêng khóa XIII có tới 7 Ủy viên Trung ương Đảng bị xử lý, đưa ra khỏi Trung ương và có người bị khai trừ Đảng.

Ông Nguyễn Đức Hà và PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc đều nhận định công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong giai đoạn 2011 - 2022 của Đảng ta đã gặt hái được nhiều thành công, góp phần làm trong sạch Đảng, xây dựng vững chắc niềm tin của Nhân dân.

Ông Nguyễn Đức Hà: Tôi xin bổ sung, từ Hội nghị Trung ương 5 khóa XI, Trung ương đã kết luận và quyết định phải kiện toàn lại Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng với số lượng, cơ cấu, thành phần hợp lý hơn.

Trước đây, văn phòng của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Chính phủ và Trưởng ban là Thủ tướng. Trung ương nhìn nhận, vấn đề tham nhũng chủ yếu xuất hiện ở các cơ quan hành pháp mà người đứng đầu cơ quan hành pháp lại là trưởng ban chỉ đạo thì sẽ “vừa đá bóng, vừa thổi còi”.

Vậy nên Đảng ta xác định, Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng phải trực thuộc Bộ Chính trị, người đứng đầu ban này phải là Tổng Bí thư - người đứng đầu trong Đảng.

Trung ương tổng kết, đánh giá về sự thành công của công tác phòng, chống tham nhũng có nhiều nguyên nhân, trong đó có cả về tổ chức, tư tưởng, nhận thức, công tác kiểm tra, giám sát, phối hợp giữa các cơ quan chức năng.

Đặc biệt, Ban chỉ đạo thuộc Bộ Chính trị và người đứng đầu là Tổng Bí thư với sự liêm khiết, trong sáng, quyết liệt, gương mẫu của người đứng đầu góp phần rất quan trọng tạo niềm tin, lan tỏa niềm tin, động lực cho cán bộ, đảng viên, Nhân dân và huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị.

Tại Hội nghị Trung ương 6, lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương đã xem xét, quyết định để 3 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý thôi tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. (Ảnh: VGP/Nhật Bắc).

 

- Muốn chống chủ nghĩa cá nhân, hạn chế suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra giải pháp hết sức căn cơ là “nhốt” quyền lực vào “lồng” cơ chế. Trong thời gian qua, Trung ương Đảng đã làm như thế nào để thực hiện điều đó?

Ông Nguyễn Đức Hà: Các Đại hội Đảng khóa XI, XII và đến bây giờ là XIII, đều xác định 3 khâu đột phá chiến lược, thì khâu đầu tiên là hoàn thiện thể chế; cụ thể là hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy định… Việc “đan lồng” cơ chế để “nhốt” quyền lực, như lời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, phải được cả hệ thống chính trị tham gia.

Nói về tham nhũng, tôi không khẳng định ai cũng tham, nhưng chắc chắn rất nhiều người tham. Nhưng "nhũng" thì không phải ai cũng làm được. Muốn "nhũng" được phải có quyền lực. Không có quyền lực, "nhũng" làm sao?

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói: “Phải bịt tất cả các khe, kẽ, lỗ hổng mà lâu nay nó cứ lách, luồn, lợi dụng”. Đảng chỉ đạo hoàn thiện thể chế tức là bịt hết tất cả ngóc ngách, lỗ hổng, khe kẽ mà người xấu dựa vào đó để lợi dụng.

 

Quy định, chính sách, pháp luật phải chặt chẽ, kín kẽ để không thể tham nhũng được. Tức là, anh muốn tham nhũng cũng không được vì có chính sách, quy định chặt chẽ rồi.

Đảng cũng đặt ra vấn đề phải đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, suy thoái về đạo đức, lối sống vì từ suy thoái về tư tưởng chính trị, suy thoái về đạo đức, lối sống dẫn đến tự diễn biến, tự chuyển hóa.

Các quy định, quy chế của Đảng có nêu rõ, đã là cán bộ, đảng viên thì không được phủ nhận, không được xuyên tạc, không được phản bác Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vì đó là nền tảng tư tưởng của Đảng.

PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc: Anh Hà vừa nói đến chủ nghĩa cá nhân. Tôi nhấn mạnh, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải tránh 3 thói hư, tật xấu là tham lam, gian xảo và lười biếng. Đây chính là biểu hiện của căn bệnh chủ nghĩa cá nhân. Và, người có chức, quyền thường sa vào biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.

Bên cạnh những thuận lợi, tạo ra khí thế mới trong Đảng và Nhân dân, trong phát triển kinh tế - xã hội, kinh tế thị trường… thì công cuộc đổi mới có những khó khăn, thách thức, nhiều động lực để phát triển nhưng cũng xuất hiện nguy cơ.

Những nguy cơ đó làm cho một số người bị tha hóa, dẫn tới lạm quyền, lộng quyền để thực thi những công việc mang lại lợi ích cá nhân. Sự tha hóa quyền lực cần phải được kiểm soát chặt chẽ và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, phải “nhốt” quyền lực vào “lồng” cơ chế.

Nhìn từ các vụ án, phần lớn cán bộ vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Vậy nên, Đảng nêu rõ phải thực hiện triệt để những quy định, quy chế làm việc để hạn chế quyền lực, đề cao nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.

Cùng đó, những quy chế làm việc được ban hành như quy chế làm việc của Trung ương, quy chế làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, quy chế làm việc của cấp ủy... sẽ kiểm soát quyền lực tốt hơn.

Đảng ta cũng hết sức chú ý đến phát huy dân chủ trong Đảng, tự phê bình và phê bình một cách nghiêm túc. Vừa rồi, khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII, vẫn còn tình trạng tự phê bình và phê bình một cách hình thức, không thực tế, cho nên không phát hiện được những sai phạm của cán bộ, đặc biệt là người đứng đầu. Chỉ đến khi Ủy ban Kiểm tra Trung ương, cơ quan cấp trên vào cuộc mới phát hiện được. Vì vậy, tự phê bình và phê bình cần làm thực chất hơn mới có thể kiểm soát được.

Trước đây, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII nêu ra 27 biểu hiện của suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và tự diễn biến, tự chuyển hóa. Vừa rồi, Trung ương có thêm quy định về những biểu hiện của tiêu cực trong Đảng. Bất kỳ cán bộ nào, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý mà vi phạm những quy định tiêu chuẩn đó, sẽ bị xử lý, không có ngoại lệ.

Tất cả quy định đã nêu sẽ tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong Đảng và hệ thống chính trị để điều chỉnh quyền lực cho phù hợp.

 

Một vấn đề nữa là kiểm tra, kiểm soát lẫn nhau ở trong hệ thống chính trị. Ngay trong Đảng thì cấp trên kiểm soát cấp dưới như thế nào? Trung ương kiểm soát địa phương như thế nào? Những cán bộ thuộc diện nào quản lý thì phải được kiểm soát chặt chẽ?... Tất cả cần quy định rõ hơn để quản lý.

Hay trong bộ máy Nhà nước, kiểm soát giữa ba cơ quan Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp. Quyền lực là thống nhất nhưng có sự phân chia, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan. Trong mỗi cơ quan ấy lại phải tự kiểm soát lẫn nhau, kiểm soát từ trong nội bộ các cơ quan.

Và cuối cùng, phải nói tới sự giám sát, kiểm soát của Nhân dân, đặc biệt là của các tổ chức quần chúng như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các cơ quan báo chí, truyền thông.

Ý chỉ đạo của Tổng Bí thư về “nhốt” quyền lực trong “lồng” cơ chế cần cụ thể hóa trên rất nhiều việc. Nếu làm được đồng bộ sẽ thành công, ngăn chặn được sự lộng quyền, lạm quyền.

 

- Tuy nhiên, việc tự giác tu dưỡng, rèn luyện theo đúng những lời đảng viên đã tuyên thệ là yếu tố tự thân để giữ mình và hơn nữa, là sự tự tỏa sáng của những thành viên trong đội ngũ tiên phong của đất nước. Việc nâng cao trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt, đảng viên đã được Đảng ta thực hiện như thế nào?

PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc: Vấn đề nêu gương trong Đảng, đặc biệt là nêu gương của những cán bộ cao cấp đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra từ sớm, nhất là trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (tháng 10/1947). Người cho rằng việc nêu gương của những người lãnh đạo có ý nghĩa rất to lớn trong toàn Đảng.

Thời kỳ đổi mới, Đảng cũng hết sức chú ý đến vấn đề nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo. Trên thực tế, chúng ta có những tấm gương rất tiêu biểu, hết lòng vì dân, vì nước như: Tổng Bí thư Trường Chinh, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Đỗ Mười, Thủ tướng Võ Văn Kiệt…

Sau này, các thế hệ lãnh đạo tiếp theo, nổi bật là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hiện nay và nhiều vị lãnh đạo cấp cao khác, là tấm gương sáng trong toàn Đảng, toàn dân.

Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã chú trọng nêu lên vấn đề nêu gương và khẳng định cán bộ càng ở cấp cao càng phải nêu gương. Tôi cho rằng, nêu gương phải thực hiện trên nhiều khía cạnh. Đó là nêu gương về trí tuệ, phải luôn luôn bồi đắp trí tuệ, xứng đáng với người lãnh đạo tiêu biểu của Đảng, bởi Đảng Cộng sản là lương tâm, danh dự, trí tuệ.

Nêu gương về đạo đức, lối sống trong sạch, đúng phẩm giá của người cộng sản, theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nêu gương về sự tận tụy trong công việc, hết lòng, hết sức vì nước, vì dân, vì công việc mình được giao phụ trách.

Nêu gương về những vấn đề sáng tạo, dám nghĩ dám làm, phê bình, tự phê bình khi có khuyết điểm, sẵn sàng nhận khuyết điểm.

Nêu gương về sự gắn bó mật thiết với Nhân dân, thật sự gần dân, hiểu dân, thương dân…

Người cán bộ như thế thì chắc chắn sẽ thành công trong sự nghiệp lãnh đạo, quản lý của mình.

Vì vậy, từ khi có Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII đã thấy những chuyển biến nhất định trong toàn Đảng và cả hệ thống chính trị. Chính những tấm gương tiêu biểu ấy đã thúc đẩy phong trào, đưa đất nước phát triển bền vững và đạt được thành tích như hôm nay.

Chúng ta có được những thành công về tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát, đảm bảo đời sống của Nhân dân, ổn định chính trị - xã hội như vừa qua thì có thể nói là kết quả nêu gương từ đội ngũ lãnh đạo, quản lý.

PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc cho rằng, không chỉ riêng đội ngũ cán bộ mà các sinh viên, đảng viên mới cũng phải rèn luyện, phấn đấu để toả sáng, đồng thời giữ mình tránh những sa ngã.

Ông Nguyễn Đức Hà: Quy định về nêu gương nhấn mạnh cán bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, cấp trên phải gương mẫu cho cấp dưới, cấp ủy phải gương mẫu đối với đảng viên, đảng viên phải gương mẫu với quần chúng…

Điểm mới tại Hội nghị Trung ương 6 là lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương đã xem xét, quyết định để 3 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý thôi tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Đó chính là một khía cạnh mới của nêu gương.

Mục đích là kịp thời thay thế những cán bộ mà uy tín giảm sút, có khuyết điểm hoặc năng lực hạn chế, không đáp ứng yêu cầu bằng những cán bộ đủ phẩm chất, năng lực, để công tác cán bộ đi vào nề nếp, dân chủ, khách quan, bài bản và hiệu quả hơn.

Vừa khuyến khích vấn đề từ chức đối với cán bộ, đồng thời tạo điều kiện để cán bộ sửa chữa khuyết điểm, phấn đấu vươn lên. Ví dụ, nếu anh từ chức khi tuổi còn trẻ, còn có nguyện vọng tiếp tục công tác thì tổ chức sẽ không bố trí làm lãnh đạo nữa; nếu đang làm lãnh đạo thì giáng một chức, cho làm cán bộ nghiên cứu chuyên môn, sau 2 năm nếu đánh giá anh đã khắc phục được khuyết điểm, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, lại có thể đưa vào quy hoạch bổ nhiệm. Bởi vì trong thực tế có đồng chí còn rất trẻ, có đồng chí không phải trên 5 năm mà còn hơn 10 năm công tác.

Rõ ràng điều này vừa tạo điều kiện để cán bộ sửa chữa khuyết điểm, cũng tạo điều kiện cho cán bộ phấn đấu vươn lên để sử dụng khả năng của mình, để phát huy năng lực, phẩm chất, tài năng.

 

- Chúng ta thấy rất rõ đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian qua rất kiên quyết, không khoan nhượng, nhưng cũng thể hiện tính nhân văn sâu sắc…

Ông Nguyễn Đức Hà: Quan điểm của Đảng ta là xem xét, xử lý cán bộ thể hiện tính nghiêm minh nhưng phải mang tính nhân văn, có lý, tình, người mắc khuyết điểm phải tâm phục khẩu phục.

Đảng sẽ không bỏ lọt tội phạm, người có khuyết điểm nhưng cũng không được làm oan cho đồng chí của mình, rõ đến đâu kết luận đến đó, kết luận đến đâu xử lý đến đó. Không được kết oan cho người khác, đừng có quy chụp, đừng theo suy nghĩ chủ quan, phải rõ người rõ việc, phải có bằng chứng cụ thể…

Tất nhiên, trong trường hợp cụ thể cũng phải xem xét cả công, tư, xem xét cả quá trình, xem xét nhân thân, xem xét thái độ ăn năn hối cải, thành khẩn… Đó là nhân văn.

Xử lý kỷ luật là kỷ luật cái khuyết điểm của cán bộ chứ không phải kỷ luật con người. Cho nên kể cả cán bộ cấp cao và cấp thấp vừa qua kỷ luật rất nhiều nhưng ai cũng phải thấy tâm phục khẩu phục, không ai kiện cáo hay thắc mắc gì… ai cũng thấy như thế là nhân văn. Thậm chí trước tòa, họ đã xin lỗi Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư, xin lỗi Nhân dân.

PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói nhiều lần rằng: Việc xử lý cán bộ, đảng viên là một điều đau xót chứ không sung sướng, vui vẻ. Thế nhưng, vì kỷ luật của Đảng, vì kỷ cương phép nước, Đảng buộc phải xử lý những cán bộ sai phạm. Trong xử lý phải có lý, tình với phương châm “phải trái phân minh, nghĩa tình trọn vẹn”.

Quy định gần đây khuyến khích từ chức cũng là cách xử lý những cán bộ mắc khuyết điểm đã bị kỷ luật, thậm chí chưa bị kỷ luật nhưng tự thấy mình kém quá, không đảm đương được công việc. Ví dụ, phụ trách một ngành nào đó mà để xảy ra tình trạng bê bối, phụ trách địa phương mà để cho dân khổ… thì nên từ chức chứ không đợi đến khi bị kỷ luật. Đó là cách xử lý nhân văn.

Đảng cũng có quy định, khi xử lý kỷ luật thì không phải vùi dập cán bộ, đảng viên. Điều này Bác Hồ cũng nêu trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" rằng, phê bình cán bộ là phê bình việc chứ không phải phê bình người; làm sao cho việc tốt hơn chứ không phải tôi ghét bỏ gì anh. Và nếu người ta có sai lầm thì thân ái phê bình để giúp đỡ tiến bộ lên, tránh thái độ “thuồng luồng, hổ mang với đồng chí của mình”. Nhờ vậy, người ta thấy được khuyết điểm để sửa chữa, đứng lên và tiến bộ, không coi việc kỷ luật là kết thúc sự nghiệp, là hết đời.

 

Trở lại với vụ án Trần Dụ Châu (xét xử ngày 5/9/1950) bị tuyên án tử hình vì “Biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, phá hoại công cuộc kháng chiến”. Trần Dụ Châu có đơn xin được giảm án. Bác Hồ trăn trở suốt đêm. Tuy nhiên, để giữ nghiêm kỷ luật Đảng và phép nước, Người đã bác đơn ân xá.

Sau đó, ngày 17/11/1950, Bác Hồ chủ trì cuộc họp của Chính phủ, rút ra ba bài học sau vụ án Trần Dụ Châu. Thứ nhất, là lựa chọn cán bộ thế nào cho chính xác để giao việc, từ công việc để chọn cán bộ để giao việc cho phù hợp. Thứ hai, thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ, nhất là nhận thức về tư tưởng, về lý tưởng cách mạng là rất quan trọng. Thứ ba là phải thường xuyên kiểm tra, giám sát cán bộ để không vi phạm.

Trước khi hạ bút bác đơn xin ân xá của Trần Dụ Châu, Bác nói: “Với loài sâu mọt đục khoét nhân dân cũng thế, nếu phải giết đi một con sâu mà cứu được cả rừng cây, đó là cần thiết, hơn nữa còn là việc làm nhân đạo”.

Gần đây, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: “Xử một người để cứu muôn người”. Đó chính là sự nhân văn.

Trung ương Đảng cũng vừa đưa ra chủ trương cũng rất nhân văn là những vụ án tham nhũng, nếu bị cáo trả lại tài sản sẽ là yếu tố giảm nhẹ. Đó là để những cán bộ mắc sai phạm nhìn thấy được con đường làm lại cuộc đời chứ không phải là sự chấm hết.

Xin cảm ơn hai ông!

 

Nguồn:

Tin mới