Theo chương trình giáo dục phổ thông hiện hành, bậc THCS, môn Lịch sử, Địa lý, Vật lý, Hóa học, Sinh học là riêng biệt. Tuy nhiên trong chương trình giáo dục phổ thông mới, các môn học này sẽ tích hợp trở lại hai môn chính gồm: Khoa học tự nhiên; Lịch sử và Địa lý. Điều này khiến nhiều giáo viên lo lắng việc dạy và học bị xáo trộn khi các thầy cô quen với việc dạy và được đào tạo đơn môn.
Phó giáo sư Mai Sỹ Tuấn, thành viên Ban Phát triển chương trình Giáo dục phổ thông mới, Chủ biên sách giáo khoa Khoa học tự nhiên lớp 6 - bộ Cánh Diều cho biết, dạy học tích hợp là xu hướng phổ biến của giáo dục tiếp cận phát triển năng lực trên thế giới hiện nay.
Kinh nghiệm quốc tế cũng như thực tiễn Việt Nam cho thấy dạy học tích hợp giúp việc học của học sinh gắn với thực tế hơn. Từ đó giúp học sinh phát triển các phẩm chất và năng lực cần thiết, khả năng tổng hợp kiến thức, kỹ năng… thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, giải quyết có hiệu quả các vấn đề trong học tập và trong cuộc sống, nhất là năng lực giải quyết vấn đề.
Trong thế giới tự nhiên, mọi sự vật và hiện tượng là thể thống nhất. Việc chia ra các lĩnh vực khoa học (hay các môn học) là để nghiên cứu sâu sự vật và hiện tượng ở khía cạnh nhất định.
Khi giải quyết một vấn đề của tự nhiên thì không chỉ cần tới khía cạnh nào mà cần kiến thức tổng hợp, cần sự tích hợp của nhiều kiến thức khác nhau. Chúng ta đều biết tính thống nhất trong giáo dục Khoa học tự nhiên thể hiện ở cả đối tượng, phương pháp nhận thức, những nguyên lý và khái niệm cơ bản.
Sách giáo khoa lớp 6 - bộ Cánh diều.
Cũng theo phó giáo sư Tuấn, trong chương trình giáo dục phổ thông mới, môn học tích hợp được thực hiện chủ yếu ở cấp tiểu học và cấp trung học cơ sở. Ở cấp tiểu học, môn học có tên Tự nhiên và Xã hội, môn Khoa học. Đến cấp trung học cơ sở sẽ phát triển thành môn Khoa học tự nhiên. Ở cấp trung học phổ thông, khoa học tự nhiên được chia ra thành các môn học riêng rẽ là Vật lý, Hoá học và Sinh học.
Như vậy, xu hướng tích hợp trong chương trình giáo dục mới lần này là tích hợp sâu ở lớp dưới và phân hoá dần ở các lớp trên.
Trên thế giới có nhiều nước dạy môn “Khoa học tự nhiên” ở cấp THCS (chẳng hạn như ở Anh, Thụy Sỹ, Xứ Wales, Australia, Niu Di-lan, Singapore, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, nhiều bang ở Mỹ…).
Nội dung kiến thức của Vật lý, Hóa học, Sinh học liên kết với nhau thông qua các nguyên lý và khái niệm chung của tự nhiên. Bên cạnh đó chương trình tích hợp còn thuận lợi trong việc thiết kế một số chủ đề tích hợp như chủ đề về biến đổi khí hậu, sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên.
Ngoài ra, việc xây dựng môn Khoa học tự nhiên sẽ tránh trùng lặp kiến thức được dạy ở nhiều môn học, nhờ đó phù hợp với thời gian học của học sinh trong nhà trường hiện nay.
Về thời lượng môn học, phó giáo sư Mai Sỹ Tuấn cho biết không tăng thời lượng dạy học. Chương trình được xây dựng cả cấp học là 560 tiết, chiếm 12% tổng số giờ của tất cả các môn học. Như vậy thời lượng không có thay đổi nhiều so với chương trình hiện hành nên không làm dư thừa số giáo viên hiện nay hay làm thiếu hụt giáo viên.
So với chương trình của các nước, nếu môn Khoa học tự nhiên chiếm từ 11 đến 14%, thì môn học của chúng ta là ở mức trung bình. So với chương trình hiện hành (tổng số 3 môn Vật lý, Hóa học và Sinh học là 595 tiết) thì chương trình lần này có ít đi đôi chút nhưng không nhiều.
Phó giáo sư Mai Sỹ Tuấn.
Về nội dung, ông cho biết, môn Khoa học tự nhiên thay đổi làm cho chương trình nhẹ hơn và hấp dẫn hơn với người học, do môn này không đi sâu mô tả đối tượng, mà đi thẳng vào chức năng và ý nghĩa ứng dụng thực tiễn của chúng. Điều đó nội dung có ý nghĩa thực tiễn và gần gũi với cuộc sống hơn.
Ví dụ, khi học về thực vật học, chương trình không tập trung vào mô tả cấu trúc của các cơ quan thực vật mà tập trung vào chức năng hoạt động và ý nghĩa thực tiễn của các cơ quan, hệ cơ quan.
Khi học về Hoá học, Vật lý và Sinh học, các khái niệm, định luật... được tiếp cận theo phương pháp làm nổi rõ bản chất, ý nghĩa khoa học, tránh khuynh hướng làm chương trình nặng hơn (tránh nặng về vận dụng toán học trong các môn khoa học, tránh thực hiện các bài tập lắt léo).
Chương trình mới giảm nội dung trùng lặp giữa các môn học Vật lý, Hoá học và Sinh học. Ví dụ, nội dung protit, lipit, gluxit đã dạy trong kiến thức hoá học thì sẽ không cần dạy trong kiến thức sinh học nữa; khái niệm vật chất đã dạy trong nội dung hoá học sẽ không cần dạy trong nội dung vật lý nữa. Chủ đề về năng lượng trước đây được dạy riêng trong từng môn, nay được tích hợp chung trong một chủ đề. Chủ đề nước trong tự nhiên trước đây được dạy cả ở hoá học và vật lý thì nay được dạy chung trong môn Khoa học tự nhiên.
Ông Tuấn nhấn mạnh, nội dung giáo dục và hình thức tích hợp trong chương trình môn Khoa học tự nhiên về cơ bản không làm thay đổi lớn số lượng giáo viên hiện nay. Giáo viên có thể tham gia dạy môn Khoa học tự nhiên được ngay.
Mức độ tích hợp liên môn, nghĩa là tích hợp nhưng vẫn giữ các mạch nội dung gần với mạch kiến thức của Hóa học, Vật lý hay Sinh học. Các nội dung được sắp xếp gần nhau theo từng mạch nội dung hỗ trợ cho nhau theo nguyên lý của tự nhiên. Ví dụ, khi học về chất trong hóa học thì theo mạch nội dung, học sinh sẽ được học luôn về chất trong sinh học – như chất tế bào.
Giáo viên Hóa học sẽ rất thuận lợi khi dạy về mạch nội dung “Chất và sự biến đổi của chất”, giáo viên Sinh học sẽ thuận lợi khi dạy về mạch nội dung “Vật sống”. Tương tự, giáo viên vật lý sẽ thuận lợi khi dạy về mạch nội dung “Năng lượng và sự biến đổi vật lý”.
Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, giáo viên dạy môn Khoa học tự nhiên rất đa dạng. Có giáo viên chỉ dạy một mạch nội dung nhưng cũng nhiều giáo viên dạy được 2 hoặc 3 mạch nội dung. Do vậy, một môn học có nhiều giáo viên đảm nhận là việc bình thường và phổ biến.