Khái niệm "ngoại hối" thường được hiểu là tiền tệ của các quốc gia khác ngoài nước sở tại, được sử dụng trong các giao dịch quốc tế. Vì vậy, việc đồng tiền Việt Nam (VND) có phải là ngoại hối hay không còn tùy thuộc vào từng hoàn cảnh.
Trong trường hợp bạn đang sống và giao dịch tại Việt Nam, đồng VND không được coi là ngoại hối. Nó là đồng tiền quốc gia, được sử dụng phổ biến trong các giao dịch hàng ngày từ mua bán, thanh toán dịch vụ, đến các hoạt động kinh tế khác.
Tuy nhiên, nếu bạn ở một quốc gia khác ngoài Việt Nam thì đồng VND sẽ được coi là ngoại hối, vì nó không phải là đồng tiền chính thức tại quốc gia đó.
Sự phân biệt này rất quan trọng trong các giao dịch tài chính và ngoại hối. Ngoại hối thường được giao dịch trên các thị trường ngoại hối (forex), nơi các đồng tiền khác nhau được mua bán theo tỷ giá hối đoái thả nổi. Chính vì thế, trong bối cảnh này, đồng VND cũng được mua bán và giao dịch như một ngoại tệ so với các đồng tiền khác.
Vấn đề này cũng liên quan đến các quy định pháp lý của từng quốc gia về quản lý ngoại hối. Tại Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước quản lý và điều chỉnh các giao dịch liên quan đến ngoại hối nhằm đảm bảo ổn định kinh tế và tài chính quốc gia. Điều này bao gồm cả việc kiểm soát dòng tiền vào - ra, mua bán ngoại tệ và các giao dịch quốc tế.
Với người dân và doanh nghiệp, hiểu rõ sự khác biệt này sẽ giúp họ có thể thực hiện các giao dịch tài chính một cách hiệu quả và tuân thủ quy định pháp luật. Nó cũng giúp họ nắm bắt được tình hình thị trường ngoại hối, từ đó đưa ra quyết định đầu tư và quản lý tài chính hợp lý.
Ảnh minh họa: Vietnamnet.
Cụ thể, theo quy định tại Khoản 2 Điều 2 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010, ngoại hối bao gồm:
a) Đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng tiền chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực (sau đây gọi là ngoại tệ);
b) Phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ, gồm séc, thẻ thanh toán, hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và các phương tiện thanh toán khác;
c) Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác;
d) Vàng thuộc Dự trữ ngoại hối nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài của người cư trú; vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp mang vào và mang ra khỏi lãnh thổ Việt Nam;
đ) Đồng tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng trong thanh toán quốc tế.
Như vậy, đồng tiền Việt Nam chỉ có thể là ngoại hối khi chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng trong thanh toán quốc tế. Còn đối với trường hợp lưu thông trong nước thì đồng tiền Việt Nam không được xem là ngoại hối.