Nhập thông tin
  • Lỗi: Email không hợp lệ

Thông báo

Gửi bình luận thành công

Đóng
Thông báo

Gửi liên hệ thành công

Đóng
Đóng

Truyền thuyết ly kỳ về nguồn gốc chữ 'song hỷ' trong đám cưới

Nguồn gốc chữ "song hỷ" trong đám cưới được cho là bắt nguồn từ câu chuyện nhân duyên kỳ lạ của tể tướng triều Tống (Trung Quốc) Vương An Thạch.

Hầu như đám cưới nào cũng hiện diện chữ (囍 - song hỷ") trên phông chính, trên tráp quà, bánh cưới..., nói chung là ở khắp mọi nơi. Vậy chữ này có ý nghĩa gì và xuất xứ từ đâu?

Nguồn gốc chữ "hỷ"

Theo lời người xưa, chữ "hỷ' (喜) là giai thoại đẹp gắn liền với việc tình duyên thiên định. Vào thời Bắc Tống ở Trung Quốc, có chàng trai ham học tên là Vương An Thạch (sau này là tể tướng). Năm 20 tuổi, cậu lên kinh dự thi, giữa đường đi qua một vùng trù phú, đúng lúc nhà Mã viên ngoại đang kén chồng cho cô con gái xinh đẹp. Ông muốn kiếm cho con một tấm chồng không cần quá giàu có nhưng nhất định phải là hiền sĩ.

An Thạch đi qua thấy nhà viên ngoại có đề một vế đối: “Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ” (Ngựa chạy theo đèn, đèn chạy theo ngựa, đèn tắt, ngựa dừng chân). Ai đối được thì viên ngoại sẽ gả con gái cho người đó.

 

Mặc dù chưa nghĩ ra vế đối lại nhưng An Thạch vẫn nói cứng: “Câu này dễ đối” rồi lại tiếp tục lên kinh dự thi. Người nhà viên ngoại nghe được nhưng chưa kịp mời vào diện kiến thì bóng cậu đã hút xa.

Khi đến trường thi, Vương An Thạch là người nộp bài đầu tiên. Vua lật xem khen tấm tắc liền gọi lên để thử thêm tài. Nhà vua nhìn thấy ở sân rồng có một lá cờ lớn liền đưa ra vế đối: “Phi hổ kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng thân" (Hổ bay theo cờ, cờ bay theo hổ, cờ cuốn, hổ ẩn mình).

An Thạch nhớ lại vế đối nhà Mã viên ngoại thấy rất chỉnh với câu này liền dõng dạc: "Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ". Nghe xong câu đối chỉnh mà ý nghĩa sâu sắc, vua lấy Vương An Thạch đỗ thủ khoa.

Trên đường quay về nhà, được mời vào nhà Mã viên ngoại, An Thạch liền đối lại bằng chính đề thi của vua. Viên ngoại bất ngờ thích thú nên nói khéo với An Thạch đó là câu đối kén rể. Vị tân khoa vui mừng nảy ra câu thơ:

Vận may đối đáp thành song hỷ
Cờ hổ, đèn quân kết vợ chồng.

Từ đó, chữ "song hỷ" ra đời, thể hiện sự cát lợi, may mắn tiếp may mắn, không ngừng.

Ý nghĩa chữ "song hỷ"

Chữ "song hỷ" đã quá quen thuộc với tập tục cưới hỏi của người Việt. Ngoài việc thể hiện niềm vui, mong muốn hạnh phúc, nó còn được xem là tín hiệu báo gia chủ đang có đám cưới.

Chữ "hỷ" có nhiều ý nghĩa tốt đẹp trong hôn nhân, không chỉ thể hiện niềm vui, hạnh phúc, mong muốn cuộc sống sung túc mà còn thể hiện tâm tình tương thông giữa vợ chồng, sự bền chặt thuỷ chung trong hôn nhân. Chính vì vậy mà nó luôn hiện diện mọi chỗ trong đám cưới.

Chữ "Hỷ" viết bằng tiếng Việt trong một đám cưới.

Nhưng mới đây, tôi có đi dự một đám cưới của 2 gia đình người Việt, nhà trai ở Phan thiết, Bình Thuận, còn nhà gái ở Sài Gòn. Trong lễ ăn hỏi ở nhà gái, chủ nhà không dùng chữ 囍 mà dùng chữ "Hỷ" viết bằng tiếng Việt trên phông chính, rất Việt nam mà hoàn toàn không mất đi vẻ trang trọng, thể hiện đúng một đám cưới.

Tôi biết chữ 囍 mặc dù gốc là tiếng Trung nhưng đã trở thành mẫu tự cho đám cưới, nhưng chữ "Hỷ" ở đây lại được viết bằng tiếng Việt cũng đâu có kém phần long trọng, mà lại rất Việt nam, không biết có phải nhà gái muốn giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt chăng?

Nguồn: Tạp chí Văn Hiến Việt Nam

Tin mới