Video: Lăng Ông, nơi thờ tự cá voi của ngư dân Bình Định.
Sinh ra từ một làng chài nghèo ven biển Bình Định, tôi hiểu rõ những giá trị biển cả mang lại cho ngư dân, cuộc sống ấm no, kinh tế đủ đầy. Nhưng để có được những điều ấy, có rất nhiều cái giá mà ngư dân phải trả lại cho biển cả, thậm chí là rất đắt.
Tại làng chài nghèo tại thị xã Hoài Nhơn, cứ qua một năm lại thêm vài ngôi mộ gió được dựng lên, những ngôi mộ này là của ngư dân đi đánh cá không có ngày về, thi thể nằm lại nơi biển sâu hun hút.
Sức mạnh chẳng thể đo đếm cũng như sự hiểm nguy tiềm ẩn trong những con sóng, trong tầng sâu của biển cả mênh mông là điều khiến ngư dân lão luyện đến mấy cũng luôn phải dè chừng.
Lớn lên giữa sóng gió đại dương, những cơn bão biển, những lần biển động và mỗi mùa ra khơi, mỗi người con miền biển không ai là không biết đến cá Ông (hay còn gọi cá Voi) và dành cho cá Ông một đức tin sâu thẳm.
Hình ảnh cá Ông hay còn gọi là cá voi thường xuyên xuất hiện tại Bình Định trong thời gian vừa qua. (Ảnh: Hoàng Đức Ngọc)
Không chỉ là một người bạn ngoài khơi xa, hiền lành, loài cá này gắn liền với những câu chuyện cứu người đi biển khi thuyền bị sóng to gió lớn đánh chìm hay phá nước. Từ đó, cá Ông được ngư dân tôn kính như một vị phúc thần, gắn kết ruột thịt tựa ân nhân cứu mạng, che chở họ muôn đời.
Theo dòng chảy văn hóa, tín ngưỡng tục thờ cá Ông đã hình thành từ xa xưa trên suốt chiều dài 134 km đường biển Bình Định nói riêng và dài hơn 3.260 km đường biển nước ta nói chung. Nhưng với ngư dân Bình Định, việc tín ngưỡng thờ phụng “vị thần hộ mệnh” này mang sắc thái rõ ràng và đậm nét nhất.
Cá Ông đã trở thành một điểm tựa an lành hiện hữu bất cứ lúc nào nào khơi xa của ngư dân Bình Định. Từ niềm tin sâu sắc ấy, cá Ông được những người con biển cả gọi bằng nhiều danh xưng tôn kính khác nhau như Đức Ông, Cá Ngài, Ông Khơi, Ông Lộng, Ông Cậu, Ông Lớn, Ông Phướn, Ông Nam Hải, Ông Chuông, Bà Chuông,...
Khi cá còn sống, ngư dân tôn kính gọi là Ông Sanh - ân nhân cứu sống sinh mạng của ngư dân khi ra khơi. Khi cá thác (chết), họ gọi là Ông Lụy. Mỗi khi có Ông Lụy trôi dạt vào bờ, ngư dân đều chịu tang 3 năm như với người thân ruột thịt của mình.
Trong các tài liệu cổ đều có miêu tả về cá Ông đầy tôn kính. Thoái thực kí văn ghi: "Hải thu tục gọi là cá Ông voi, mình dày không vảy, đuôi giống tôm, kỳ nó rất sắc, mũi ở trên trán, tính có nhân hay cứu người. Người đi thuyền gặp phong ba mà đắm, nó thường đội trên lưng đưa vào gần bờ, vẫy đuôi bỏ lên. Người miệt biển rất kính. Có con chết mà tạt vào bờ ruồi lẳng không đậu, họ bèn góp tiền làm ma, ai chủ việc tang ấy thì đánh cá và buôn bán có lợi."
Sách Đại Nam nhất thống chí thì ghi: “Cá Ông voi là Đức ngư (theo tên đời Tự Đức ban cho) đầu tròn, trên trán có lỗ phun nước sắc đen, nhẵn nhụi không vẩy, đuôi chẻ ra như con tôm, tính hiền lành hay cứu người."
Ngoài ra, sách Gia Định thành công chí cũng có nói rằng: "Những khi thuyền bè gặp sóng gió nguy hiểm, thường thấy thần (cá Ông) dìu dỡ mạn thuyền bảo vệ người yên ổn. Hoặc thuyền bị chìm đắm, trong cơn sóng gió thần cũng đưa người vào bờ, sự cứu giúp ấy rất rõ."
Gần nhất của việc tục thờ cá Ông được biết đến từ thời Nguyễn, với chuyện cá Ông cứu mạng vua Gia Long Nguyễn Ánh khi chạy trốn nhà Tây Sơn. Khi thắng trận, vua đã phong tặng cá Ông là Nam Hải Đại tướng quân và cho lập lăng miếu thờ cúng với nhiều sắc phong.
Cá Ông đã trở thành một điểm tựa an lành hiện hữu bất cứ lúc nào nào khơi xa của ngư dân Bình Định
Nhiều câu chuyện huyền bí xung quanh việc cứu nạn lúc hiểm nguy trên biển của cá voi nên loài cá này đã được ngư dân tôn kính là vị Thần Ngư Nam Hải và gọi là “Ông”. Cụ Lê Một (75 tuổi), người trông coi lăng Ông ở thôn Kim Giao, xã Hoài Hải, thị xã Hoài Nhơn (Bình Định) cho biết, Hoài Hải là nơi có rất nhiều thuyền của ngư dân bị hỏng máy trôi trên biển, bị phá nước chìm thuyền mỗi khi ra khơi mùa biển động mưu sinh. Những trường hợp được cứu đều kể lại thấy cá Ông xuất hiện dìu thuyền vô tới gần bờ khi họ khấn vái.
“Có nhiều điều kỳ diệu trên biển của ngư dân trong làng kể lại, khi gặp nạn, họ đã cố gắng chống chọi sóng biển đến lúc kiệt sức, thì bỗng thấy toàn thân ấm áp và được nâng lên trên mặt nước, nhìn lại mới thấy đó là nhờ Ông “cõng” bơi trên mặt biển suốt cả ngày cho đến khi gặp tàu cứu vớt...”, cụ Lê Một chia sẻ.
Những thông tin trên cho thấy tín ngưỡng thờ cá Ông đã hình thành từ lâu theo lịch sử dân tộc, khảm sâu vào tâm thức ngư dân vùng biển về một điểm tựa tâm linh giàu ý nghĩa.
Khi ngư dân Bình Định trông thấy cá Ông dạt vào từ khơi xa, họ sẽ cùng nhau đưa Ông lên bãi. Ngư dân nghiêm túc sắp lễ, tiến hành nghi thức làm đám tang. Mỗi mùa gió Đông Bắc hằng năm cũng là mùa Ông Lụy nhiều nhất.
Hài cốt cá Ông được ngư dân Bình Định thờ tại các lăng Ông.
Người trông thấy cá Ông thác (chết) đầu tiên thì được quyền làm chủ tang hay còn gọi là Trưởng tử. Vị này sẽ kêu gọi toàn thể dân làng quyên góp để an táng cá Ông. Từ lâu ngư dân vùng biển tin rằng, ai được Trưởng tử sẽ gặp nhiều may mắn, năm ấy sẽ làm ăn thịnh vượng, bội thu. Không chỉ vậy, ngư dân còn có niềm tin mạnh mẽ rằng, Ông lụy ở đâu thì dân làng nơi đó được hưởng vận may, nhận được nhiều phúc lành.
Khi an táng, Trưởng tử phải chít khăn tang, mặc áo gai có bổn phận lo liệu đám tang chu đáo, cẩn thận. Sau khi chôn cất và chịu tang cá Ông khoảng 3 năm thì người dân làm lễ cải táng. Xương cốt của cá Ông được xếp vào quách, chuyển vào trong lăng để thờ.
Bình Định là nơi có rất nhiều lăng Ông ở làng vạn chài. Mỗi lăng Ông đều gắn liền với những truyền thuyết, câu chuyện kỳ thú xung quanh tục thờ cá Ông và lòng tôn kính đặc biệt của ngư dân với loài cá voi này.
Lăng Ông Nam Hải tại thôn Kim Giao, xã Hoài Hải, thị xã Hoài Nhơn, Bình Định.
Trên địa bàn tỉnh Bình Định có gần 30 lăng Ông thờ cúng hài cốt cá voi, 5 lăng ở thành phố Quy Nhơn; 1 lăng ở huyện Tuy Phước; 7 lăng ở huyện Phù Cát; 4 lăng ở huyện Phù Mỹ và nhiều nhất là Thị xã Hoài Nhơn có đến 12 lăng.
Những lăng Ông được xây dựng lâu đời nhất như ở tại thôn Bình Thái (xã Phước Thuận, Tuy Phước) được xây dựng ban đầu từ năm 1785, lăng Ông ở thôn An Quang (xã Cát Khánh, Phù Cát) xây dựng năm 1806…
Tại thôn Vĩnh Lợi 3, xã Mỹ Thành, huyện Phù Mỹ nơi có đến hai lăng Ông nổi bật tại tỉnh Bình Định là lăng Từ Đường và lăng Đại, trong đó lăng Đại đang lưu giữ bộ cốt cá Ông khổng lồ.
Và giữ được nhiều sắc phong nhất vẫn là lăng Ông ở thôn Kim Giao Nam, xã Hoài Hải, thị xã Hoài Nhơn, Bình Định được xây dựng vào năm 1825.
“Ngày xưa, người được giao nhiệm vụ canh giữ sắc phong phải là các cụ cao tuổi có gia đình hạnh phúc, được nhân dân kính trọng... nhưng đến sau này thì sắc phong được đưa vào lăng Ông để thờ tự. Đến thời điểm hiện tại, nhà nước đã trao quyết định 9/10 sắc phong của các đời vua Nguyễn tại lăng ông này”, cụ Lê Một cho hay.
Tiếp nối truyền thống từ thời ông cha, nhiều đời nay, ngư dân vẫn tỏ lòng thành và tôn kính giữ vững tập tục thờ cúng cá Ông. Tri thức dân gian nắm giữ nhiều truyền thuyết về tục thờ cá Ông. Ở mỗi vùng miền trên khắp dải đất Việt Nam, mỗi miếu thờ, lăng thờ cá Ông đều gắn với câu chuyện của riêng mình.
Lăng Ông là nơi bồi đắp tinh thần cố kết cộng đồng, sự gắn kết giữa con người và động vật biển, đồng thời góp phần bảo lưu nét đẹp của phong tục, các loại hình diễn xướng dân gian độc đáo, nghệ thuật truyền thống…
Mỗi khi xuân về, ngư dân miền biển Bình Định lại tổ chức dọn dẹp lại mộ cá Ông khi chưa đủ 3 năm lấy cốt.
Nhiều làng vạn chài ở Bình Định tổ chức được lễ hội cầu ngư tại lăng Ông thành những ngày hội đậm chất văn hóa dân gian độc đáo mang bản sắc riêng của địa phương.
Lễ hội cầu ngư và Nghinh Ông là một trong những nét đặc sắc trong tục thờ cúng cá Ông của ngư dân miền biển. Ngày vía cá Ông tùy thuộc vào từng nơi mà có ngày cúng riêng. Có nơi chọn ngày Ông lụy bờ, có nơi chọn ngày mà cá Ông nơi đó nhận được sắc phong nhà vua ban.
Lễ hội diễn ra là dịp để ngư dân bày tỏ sự biết ơn, trân trọng và lòng thành kính với vị thần biển cả. Trong ngày vía Ông, nơi thờ phụng được trang hoàng rực rỡ. Tại nhà ngư dân thì dâng đồ cúng lên hương án. Tàu thuyền của ngư dân đều được giăng đèn kết hoa lộng lẫy.
Tại lăng thờ, vị chủ lễ sẽ dâng đồ cúng tế và đọc văn tế cảm tạ bày tỏ sự biết ơn của người dân với Đức Ông, Đức Bà. Bên cạnh đó, dịp lễ hội cũng là lúc để ngư dân cầu mong một mùa ra khơi an lành, bội thu, đầy ắp tôm cá.
Đặc biệt những nghĩa địa, lăng thờ cá Ông được chăm sóc, hương hỏa thường xuyên là cách ngư dân bám biển thể hiện lòng thành và sự biết ơn của mình.
Ở Bình Định, ngoài các lễ hội miền xuôi hay miền núi còn có ngày hội cầu ngư của nhân dân các xã ven biển. Tồn tại từ lâu đời, lễ hội cầu ngư là nét đẹp văn hóa truyền thống vô cùng độc đáo của ngư dân. Nó phản ánh đời sống văn hóa tinh thần phong phú và những tín ngưỡng mang màu sắc huyền bí trên sóng nước.
Lễ hội cầu ngư và Nghinh Ông là một trong những nét đặc sắc trong tục thờ cúng cá Ông của ngư dân miền biển Bình Định.
Sắc phong cá Ông tại các lăng ở Bình Định, từ thời nhà Nguyễn ban cho và đến nay, hầu như đều đã được dịch sang tiếng thuần Việt.
Dưới thời nhà Nguyễn, cá Ông được nhận nhiều sắc phong như Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân chi thần (thời Minh Mạng), Từ Chế Chương Linh Trợ Tín Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân chi thần (thời Thiệu Trị), Từ Tế Chương Linh Trợ Tín Trừng Trạm Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân chi thần (thời Tự Đức),
Từ Tế Chương Linh Trợ Tín Trừng Trạm Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân chi thần (thời Đồng Khánh), Từ Tế Chương Linh Trợ Tín Trừng Trạm Dực Bảo Trung Hưng thượng đẳng thần (thời Duy Tân).
Không chỉ sắc phong, nhà vua cũng ban lệnh rằng, làng nào có Ông Lụy thì phải báo cáo lên phủ huyện để cấp tiền tuất, hương đèn, vải đỏ để tổ chức khâm liệm, cấp đất xây lăng và ruộng hương hỏa để phụng thờ.