Tiếp tục phiên họp thứ 27, sáng 12/10, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét cho ý kiến về tiến hành giám sát chuyên đề "Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016 - 2021".
Trình bày báo cáo tóm tắt kết quả giám sát, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy cho biết, việc cung cấp và nhập khẩu năng lượng cơ bản đáp ứng đủ cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh với chất lượng ngày càng được cải thiện, cơ bản đảm bảo an ninh năng lượng.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy. (Ảnh: quochoi.vn).
"Tổng cung cấp năng lượng sơ cấp của Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 có mức tăng trưởng trung bình khoảng 8,7%/năm. Tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng của Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 tăng bình quân 6,8%/năm", báo cáo nêu.
Đoàn giám sát nhận định, ngành điện trong giai đoạn 2016 - 2021 đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống hàng năm đều tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước, đảm bảo cung cấp điện cơ bản đầy đủ; hệ thống điện vận hành an toàn, ổn định.
"Tổng sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu năm 2020 đạt 247 tỷ kWh, tăng 1,5 lần so với năm 2015 (163,8 tỷ kWh). Sản lượng điện sản xuất và mua vào năm 2020 đạt 238.5 tỷ kWh, tăng 1,5 lần so với năm 2015 (159,7 tỷ kWh).
Tổng sản lượng điện thương phẩm tiêu thụ năm 2020 đạt 216,9 tỷ kWh, tăng 1,51 lần so với năm 2015 (143.7 tỷ kWh)...", ông Lê Quang Huy nêu loạt số liệu.
Dù vậy, theo đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia đối mặt với nhiều thách thức; các nguồn cung trong nước không đủ đáp ứng yêu cầu dẫn đến phải nhập khẩu năng lượng ngày càng lớn.
Khả năng thiếu điện trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn là nguy cơ hiện hữu - Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường nhận định. (Ảnh minh họa: EVNHCMC)
"Chỉ tiêu chủ yếu đánh giá đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia biến động theo chiều hướng bất lợi. Khả năng thiếu điện trong ngắn hạn (2024 - 2025), trung hạn (2025 - 2030) và dài hạn (2030 - 2050) là nguy cơ hiện hữu", Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường nói.
Vẫn theo đại diện đoàn giám sát, có 6 chỉ tiêu đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, gồm: tỷ số trữ lượng và sản xuất của than, dầu thô và khí được quy đổi; sự phụ thuộc vào nhập khẩu than, dầu và khí đốt tự nhiên; tỷ trọng chi phí nhập khẩu trên tổng thu nhập quốc nội; đa dạng hóa nguồn nhập khẩu; đa dạng hóa cơ cấu dữ liệu để phát điện; cường độ năng lượng sơ cấp.
"Có đến 3/6 chỉ tiêu đang biến động theo chiều hướng bất lợi", ông Lê Quang Huy đánh giá.
Cụ thể, tỷ số trữ lượng và sản xuất của than, dầu thô và khí đốt tự nhiên ngày càng giảm khi than còn khoảng 70 năm, dầu thô còn 20 năm, khí tự nhiên còn 40 năm. Xu hướng phụ thuộc vào nhập khẩu than, dầu và khí tự nhiên trở nên rõ ràng. Trong khi đó, tỷ lệ chi phí nhập khẩu than, dầu và khí tự nhiên trong tổng thu nhập quốc nội ngày càng tăng.
Ông Lê Quang Huy lưu ý, ngành năng lượng nước ta ngày càng phụ thuộc vào nhập khẩu; tài nguyên năng lượng sơ cấp Việt Nam ngày càng cạn kiệt. Tài nguyên năng lượng sơ cấp về thủy điện về cơ bản đã khai thác hết.
Cạnh đó, sản lượng dầu và khí ở một số mỏ lớn đã suy giảm nhanh, việc phát triển mỏ mới trên Biển Đông gặp nhiều khó khăn.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cho rằng những bất cập trong cung ứng năng lượng dẫn đến tình trạng thiếu xăng dầu cục bộ cuối năm 2022, tình hình thiếu điện ở miền Bắc đầu năm 2023, gây bức xúc trong dư luận xã hội, cử tri và Nhân dân.
Toàn cảnh phiên họp. (Ảnh: quochoi.vn).
Thay mặt đoàn giám sát, ông Lê Quang Huy cũng chỉ ra các nguy cơ ảnh hưởng đến bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia thời gian tới.
Cụ thể là khó tiếp cận năng lượng, thiếu tính đa dạng hóa các nguồn năng lượng, phụ thuộc cao vào các dạng năng lượng truyền thống, mất cân đối giữa cung và cầu năng lượng trong nước, nguồn phát điện giữa các vùng, phụ thuộc vào năng lượng nhập khẩu, nguồn tài chính và công nghệ từ bên ngoài, cơ sở hạ tầng năng lượng tương xứng.
Đồng thời, một số dự án nguồn điện chưa đưa vào vận hành do chậm tiến độ, chậm khởi công so với quy hoạch, hoặc dừng triển khai cũng ảnh hưởng đến bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Báo cáo của đoàn giám sát dẫn chứng loạt dự án đang chậm tiến độ như: Nhà máy Điện than Long Phú 1, Thái Bình 2, Sông Hậu 1 của PVN; các dự án: Na Dương II, Quỳnh Lập I, Cẩm Phả III, Hải Phòng III của TKV; chuỗi dự án khí - điện Lô B Ô Môn…
"Trong khi đó, việc triển khai quy hoạch các phân ngành năng lượng còn nhiều hạn chế, bất cập, nhất là trong việc tổ chức thực hiện Quy hoạch điện VII và Quy hoạch điện VII điều chỉnh đối với việc phát triển điện mặt trời, điện gió, thủy điện nhỏ", ông Lê Quang Huy nói.
Cụ thể, việc phê duyệt bổ sung tổng số 168 dự án điện mặt trời với tổng công suất 14.707 MW, 123 dự án điện gió với tổng công suất 9.047 MW, phê duyệt riêng lẻ 390 dự án thủy điện nhỏ với tổng công suất 4.138 MW vào quy hoạch phát triển điện lực các cấp giai đoạn 2016 - 2020 đã gây ảnh hưởng đến việc phát điện và truyền tải điện lên hệ thống.
Đoàn giám sát dẫn báo cáo của Thanh tra Chính phủ, trong giai đoạn 2016-2021, qua thanh tra đã phát hiện vi phạm về kinh tế 15.170 tỷ đồng, 5.960m2 đất, xử lý hành chính 246 tổ chức, 724 cá nhân và chuyển cơ quan điều tra tiếp tục, xem xét, xử lý 23 vụ.
Đoàn giám sát kiến nghị ban hành Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII, Quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia, danh mục các dự án phát triển năng lượng quan trọng quốc gia, cấp bách trong giai đoạn 2023-2030.
Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, rà soát, đánh giá tác động, có cơ chế phù hợp, nếu cần thiết đề xuất cơ chế đặc thù để triển khai kịp tiến độ các dự án nguồn và lưới điện cấp bách theo quy hoạch.
"Không để thiếu điện, than, xăng dầu và khí đốt cho nền kinh tế, sinh hoạt của người dân trong mọi tình huống", đoàn giám sát nêu quan điểm.