Từ đầu năm, biểu lãi suất huy động đang được các ngân hàng điều chỉnh giảm xuống nhanh chóng. Tuy vậy, mức lãi suất cao nhất trên thị trường hiện vẫn đang là 9,5%. Hiện vẫn có 7 ngân hàng niêm yết mức lãi suất này cho kỳ hạn 12 tháng.
Các mức lãi suất cụ thể theo từng kỳ hạn tại các ngân hàng được niêm yết như sau:
Ngân hàng | Kỳ hạn 3 tháng | Kỳ hạn 6 tháng | Kỳ hạn 12 tháng | Kỳ hạn 24 tháng |
Agribank | 5,4 | 6,1 | 7,4 | 7,4 |
Vietcombank | 5,4 | 6 | 7,4 | 7,4 |
Vietinbank | 5,4 | 6 | 7,4 | 7,4 |
BIDV | 5,4 | 6 | 7,4 | 7,4 |
ABbank | 6 | 8,6 | 9,1 | 9,2 |
Bắc Á Bank | 6 | 9,3 | 9,4 | 9,5 |
Bảo Việt Bank | 6 | 9,3 | 9,5 | 9 |
CBbank | 3,95 | 7,2 | 7,5 | 7,55 |
Đông Á Bank | 6 | 9,35 | 9,5 | 9,5 |
GPBank | 6 | 8,9 | 9,1 | 9,2 |
Hong Leong Bank | 6 | 9,1 | 8,9 | - |
Kiên Long Bank | 6 | 9,3 | 9,5 | 9 |
MSB | 6 | 9,3 | 9,4 | 9,5 |
Nam Á Bank | 5,9 | 9,1 | 9,5 | 9,3 |
NCB | 6 | 9,3 | 9,45 | 9,45 |
OCB | 5,95 | 9 | 9,3 | 9,3 |
Oceanbank | 6 | 8,9 | 9 | 9,2 |
PVCombank | 6 | 9,5 | 9,5 | 9,5 |
Sacombank | 6 | 8,3 | 8,6 | 8,8 |
Saigonbank | 6 | 9,2 | 9,4 | 9,3 |
SCB | 6 | 9,5 | 9,5 | 9,45 |
SHB | 6 | 8,42 | 8,42 | 8,82 |
Techcombank | 6 | 8,7 | 8,7 | 8,7 |
TPbank | 5,95 | 7,8 | 8,2 | 8,35 |
VIB | 6 | 8,7 | 8,6 | 8,8 |
Việt Á Bank | 6 | 9,3 | 9,5 | 9,5 |
Vietcapitalbank | 6 | 8,6 | 9 | 9 |
VPbank | 6 | 8,9 | 9,3 | 9,4 |
Gói tín dụng 120.000 tỷ không dành cho nhà ở thương mại
Mới đây nhất, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã họp bàn với 4 ngân hàng Vietcombank, Agribank, BIDV, Vietinbank để thống nhất gói tín dụng quy mô 120.000 tỷ đồng. Mỗi ngân hàng sẽ dành khoảng 30.000 tỷ đồng cho 2 đối tượng là nhà ở xã hội và nhà ở cho công nhân.
Thông tin trên được Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà cho biết tại họp báo Chính phủ thường kỳ chiều 3/3.
Theo ông Hà, những khó khăn của thị trường bất động sản thời gian qua xuất phát từ nhiều nguyên nhân như vấn đề pháp lý, mất cân đối cung cầu, khó khăn về vốn, trong đó có nguồn vốn từ hệ thống ngân hàng.
Còn trả lời tại cuộc họp Chính phủ thường kỳ tháng 2 sáng 3/3, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, hiện nay, kinh tế thế giới đang phục hồi chậm, bước đầu đã tránh được nguy cơ suy thoái, nhưng vẫn còn diễn biến phức tạp. Đặc biệt, trên thị trường tài chính quốc tế, xu hướng tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) vẫn đang diễn ra, do đó, các ngân hàng trung ương trên thế giới (kể cả châu Á) vẫn tiếp tục tăng lãi suất. Từ đầu năm đến nay, đã có thêm 36 lượt tăng lãi suất trên thế giới. Điều này khiến USD bắt đầu tăng giá trở lại từ giữa tháng 2/2023.
Theo Thống đốc, diễn biến của USD đang tạo áp lực lên điều hành chính sách tiền tệ, ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước, bởi cơ quan này vừa phải phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất, vừa phải nỗ lực ổn định tỷ giá. Trong điều kiện nền kinh tế mở, việc ổn định thị trường ngoại hối, tỷ giá rất quan trọng. Vì vậy, điều hành chính sách lãi suất phải thực hiện hài hòa với đảm bảo ổn định thị trường ngoại hối và tỷ giá.
Từ đầu năm đến nay, thị trường ngoại hối, tỷ giá trong nước ổn định, các giao dịch trên thị trường ngoại tệ thông suốt. Từ đầu năm đến nay (3/3), VND chỉ mất giá 0,6% so với cuối năm 2022, đây là mức mất giá thấp so với các đồng tiền trong khu vực.
Trong khi tỷ giá ổn định, thì lãi suất và tiếp cận vốn là vấn đề khiến nhiều doanh nghiệp lo lắng. Về vấn đề này, Thống đốc cho biết, thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã có sự chỉ đạo các tổ chức tín dụng giảm lãi suất và thực tế lãi suất trên thị trường đã bắt đầu giảm. Lãi suất cho vay bình quân phát sinh mới đã giảm 0,43%. Đã có 22 ngân hàng thương mại giảm lãi suất cho vay bình quân. Thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục điều tiết theo hướng phấn đấu giảm lãi suất.