Kỳ 1: Những vụ tham nhũng, vơ vét điển hình
Kỳ 2: Chuyện các vua phòng chống tham nhũng
Ăn trộm sao tha được
Trịnh Khả (1403 - 1451), người xã Sóc Sơn, huyện Vĩnh Ninh (nay là huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa). Vì có công, ông được mang quốc tính nhà Lê, sử vẫn chép ông là Lê Khả. Trịnh Khả có mặt trong hội thề Lũng Nhai và trở thành một trong những vị tướng của Lam Sơn, lập được nhiều công lao.
Năm 1428, ông được Lê Lợi phong hàm Kim tử vinh lộc đại phu, Tả lân hổ vệ tướng quân, tước Liệt hầu, có tên trong bảng khắc ghi danh sách 93 vị công thần khai quốc.
Đền thờ Thái úy Trịnh Khả ở làng Giang Đông (xã Vĩnh Hòa, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa).
Đầu đời Lê Nhân Tông (1441 - 1459), Trịnh Khả được phong hàm Nhập nội suy trung tán lí dương vũ công thần, kiêm Lỗi Giang trấn phủ quân, Thượng tướng quân, cai quản việc quân các vệ ở Tây Đạo, tước Quận thượng hầu.
Lúc này, cùng với Lê Thụ, ông là bậc tể phụ của triều đình, nhưng khác với Lê Thụ, ông là người thẳng thắn, biết tự nhận lỗi của mình. Sinh thời, ông rất ghét bọn tham quan ô lại và bọn xu nịnh. Sách Đại Việt thông sử viết: “Viên Chủ bạ Nam Đạo là Đàm Thảo Lư ẩn lậu 4 quan tiền thuế, theo luật không đến nỗi xử tử, nhưng y đã từng vu hãm Nguyễn Thiên Tích nên ông ghét lắm, bèn quyết định ghép vào tội chết”.
Viên Chuyển vận phó sứ huyện Văn Bàn là Trương Tông Ký ăn hối lộ, việc bị phát giác, án làm xong sắp đem chém thì tả hữu xin tha, ông nói: “Ăn trộm của một nhà còn không tha được huống hồ ăn trộm của một huyện sao tha được”. Ông giao tra xét lại và xử tội chết. Trịnh Khả làm theo lý khiến các quan tham đều khiếp sợ.
Chặt tay, chém đầu
Vào đời vua Lê Nhân Tông, Lê Nhân Lập là con của Thiếu úy Lê Lan cùng với bọn người xấu trong kinh thành là Nguyễn Thọ Vực họp nhau đánh bạc, trộm cướp. Tệ hại hơn, Lập lợi dụng quyền lực của cha để nhũng nhiễu nhận hối lộ của kẻ cần cầu cạnh cha mình. Trước những việc làm bậy, triều đình đã sai quân đến tận nhà Vực, dụ Lập và đồng bọn ra ngoài rồi thẳng tay chém đầu.
Vua Minh Mạng không chỉ ban chiếu dụ nhằm đưa ra các chủ trương hạn chế, ngăn ngừa nạn tham nhũng mà ông còn xử rất nghiêm khắc đối với các vụ tham nhũng. Tham nhũng trên mọi lĩnh vực đều căn cứ vào mức độ phạm tội mà xét xử. Có những hình phạt rất nặng như chém đầu bêu ở chợ, chặt tay… Những biện pháp xử tội tuy có phần khắt khe, nhưng là rất cần thiết để ngăn chặn tệ tham nhũng và làm gương cho kẻ khác.
Vụ của Nguyễn Đức Tuyên ăn cắp nhựa thơm bị phát hiện, vua Minh Mạng dụ rằng: “Tội của Tuyên đáng lẽ cho trói mang dong ra chợ Cửa Đông chém đầu nhưng lần này tạm chặt một bàn tay thủ phạm treo lên, xóa tên của nó ra khỏi sổ quan, để lại cho nó cái đầu khiến cho nó suốt đời phải hối hận và nhờ đó mọi người biết mà tỉnh ngộ”.
Vụ Đinh Văn Tăng tham nhũng trong cân đong thóc gạo đổi cách làm phương hộc (một dụng cụ đo lường) nên bị chém đầu và chặt một bàn tay ướp muối phơi khô rồi treo lên để mọi người thấy mà ghê. Đối với người thân Minh Mạng cũng xử lý nghiêm khi họ phạm tội. Ông không phân biệt người thân hay sơ, tất cả đều bình đẳng trước pháp luật.
Vua Tự Đức. (Ảnh: Internet)
Tự Đức (1829 - 1883) là vị vua nổi tiếng chống tham nhũng, hối lộ. Vũ Dinh là vị quan thanh liêm, chính trực có lần cho lính theo dõi và bắt quả tang người coi kho lấy trộm tiền, giấu vào túi áo, rồi tìm cách trốn ra quán uống rượu. Bản án được lập như sau: “Nhất nhật nhất tiền/ Thiên nhật thiên tiền/ Thằng cứ mộc đoạn/ Thuỷ trích thạch xuyên” (nghĩa là: Một ngày một đồng/ Ngàn ngày ngàn đồng/ Dây cưa gỗ đứt/ Nước chảy đá mòn). Tội biển thủ nếu không trị nặng thì một ngày kia, kho tàng của nhà nước sẽ trở nên trống rỗng, cho nên tội này phải tội chém. Nhà vua xem xong liền phê chuẩn y án.
Tháng 12/1854, thương nhân Trung Quốc Chu Trung Lập gửi đơn lên triều đình tố giác quan lại nhiều địa phương ăn của đút lót thương thuyền ngoại quốc. Tự Đức liền phái quan Quản viện đô sát dẫn đầu đoàn thanh tra triều đình đến Quảng Nam điều tra làm rõ vụ việc và đã phát hiện những tố giác trên là có thật.
Chiếu theo Hoàng Việt luật lệ, 17 người bị xử tội giảo giam hậu (bắt thắt cổ chết nhưng còn tạm giam đợi lệnh), 25 người bị tội lưu đày, 12 người bị tội làm lao dịch, 8 người bị phạt đánh gậy và cách chức. Nhiều quan lớn cũng bị dính vào vụ này như Tham tri bộ Hộ Phan Tĩnh, nguyên Bố chánh Đào Trí Phú, nguyên Đốc học Phan Bật chia nhau 60 lạng bạc bị tội lưu đày, Tri phủ Điện Bàn là Nguyễn Bá Đôn ăn hối lộ 12 lạng bạc, Án sát Đặng Kham nhận đút lót 82 lạng bạc, Kham sợ quá nên lâm bệnh chết trong tù. Đây là vụ án xử nhận hối lộ lớn nhất Việt Nam thời phong kiến.
Không làm trái phép tắc tổ tông
Lê Thánh Tông là người kiên quyết chống tham nhũng, nhưng tùy theo tội mà xử nặng hay nhẹ. Cũng có khi quan phạm tội nặng ông vẫn tha mạng để họ hối lỗi từ đó mà phụng sự triều đình tốt hơn.
Thượng thư các bộ nếu có hành vi tham ô, tham nhũng thì cứ chiếu theo luật mà định tội: “Bọn Nguyễn Thư, Phan Trinh đều là thân phận là người gần vua mà ăn của đút, quan giữ việc pháp luật cầm công cán công bằng đáng phải luận bọn này vào tội tử hình”.
Có kẻ phạm tội bị buộc vào tội hình và có người đứng ra xin cho nộp tiền chuộc, nhưng Lê Thánh Tông bảo bầy tôi trong triều rằng: “Xin cho người mắc tội tham tang được nộp tiền chuộc, như thế thì người giàu có nhiều của đút lót mà khỏi tai vạ, người nghèo vì không có tiền mà phải chịu tội lỗi, thế là làm trái cả phép tắc của tổ tông” và vua hạ lệnh cho pháp ty xét xử trị tội theo luật định.
Một lần, con trai của Tây quân Đô đốc Lê Thiệt cưỡi ngựa phi thẳng vào chỗ đông người đã gây ra tai nạn song còn bỏ mặc họ. Khi biết là con của Lê Thiệt, Thánh Tông đã sai lính nọc ra đánh 50 roi và cách chức ông bố. Lê Thánh Tông cấm vợ các quan lớn không được đi lại, chơi bời với nhau vì sợ họ cấu kết đi cửa hậu. Con cái các quan lớn cũng không được lợi dụng chức quyền của cha họ để làm việc phi pháp.
Công bằng trong phán xử
Danh thần nhà Lê Phan Thiên Tước dâng sớ hạch tội một đại thần của triều đình là Tiền quân tổng quản Lê Thụ, với 2 tội danh: Đang có quốc tang mà dám cưới thiếp và làm giàu trái phép bằng cách sai người nhà buôn bán vụng trộm với người nước ngoài, rồi xây dựng nhà cao cửa rộng. Vua Lê Thái Tông ngạc nhiên vì ông nghe nhiều tin đồn, không ít các mệnh quan đều đua nhau sai quân lính dưới quyền mình xây dựng nhà cửa, lâu đài... mà không thấy Thiên Tước đả động đến.
Thời vua Lê Thái Tông trị vì đất nước thịnh trị. (Ảnh minh họa: Lịch sử Việt Nam bằng tranh)
Thái Tông bèn hỏi: “Sao khanh chỉ tâu có một mình Thụ? Thế còn các đại thần khác không ai làm như Thụ hay sao?”. Thiên Tước biện minh: “Tâu bệ hạ, đô đốc, tư khấu, tư mã, đều là bậc đại thần cố mệnh cả, cho nên cần phải giữ mình ngay thẳng để còn dẫn dắt mấy trăm quan khác. Các vị ấy làm việc gì nhất thiết đều phải theo phép hay tâu cáo trước rồi mới được làm. Thần thấy Thụ đã làm những điều trái phép nên không thể không nói. Vả lại Thụ có mấy việc, nên tâu gồm một thể. Nay bệ hạ chỉ giáo như vậy, thần xin vâng mệnh đi khám xét nhà cửa của tất cả các đại thần khác”.
Sau một thời gian dò xét, điều tra Thiên Tước dâng sớ cả thảy 20 người đã làm nhà mới. Thái Tông xem xong, không hỏi đến các quan khác và chỉ sai khám xét tài sản của Lê Thụ. Thấy Thụ bị nguy, các đại thần là Đô đốc Lê Vấn, Tư mã Lê Ngân tâu với vua rằng Lê Thụ là bậc thân huân xin vua nhẹ tay. Nể lời các đại thần, Thái Tông tha cho Lê Thụ, chỉ tịch thu 15 lạng vàng và 100 lạng bạc do việc buôn lậu với thương nhân nước ngoài. Riêng việc “cưới nàng hầu” Trình Thị là hôn nhân cưỡng ép, bèn sai rút Trình Thị khỏi hộ tịch của Thụ, cho Thị chuộc thân trở lại làm người tự do, được quyền lấy chồng khác.
Còn nữa