Nhập thông tin
  • Lỗi: Email không hợp lệ

Đóng

Những người mẹ vĩ đại trong lịch sử Việt Nam

(VTC News) -

Tôn vinh các hiền mẫu trong Ngày của Mẹ, không thể không nhắc đến những người mẹ vĩ đại trong lịch sử Việt Nam.

Bà Hoàng Thị Loan, thân mẫu Bác Hồ

Bà Hoàng Thị Loan (1868-1901) là con gái của cụ tú Hoàng Xuân Đường ở Nam Đàn, Nghệ An. Lớn lên trong gia đình chữ nghĩa, tại vùng quê giàu truyền thống văn hóa, bà có sự am hiểu sâu sắc đối với loại hình hát phường vải, và là thiếu nữ hát phường vải có tiếng. Tuy gia cảnh khấm khá, dung nhan xinh đẹp, bà vẫn chăm chỉ việc đồng áng và là thợ dệt giỏi trong vùng.

Năm 15 tuổi, vượt qua định kiến, bà kết hôn với ông Nguyễn Sinh Sắc – chàng trai làng Sen mồ côi cả cha lẫn mẹ được cụ Hoàng Xuân Đường nhận nuôi. Ông Sắc tư chất thông minh, chịu thương chịu khó, được cụ Đường dạy dỗ từ bé để theo đòi khoa cử. Sau khi kết hôn, bà Loan tảo tần canh cửi chăm chồng đèn sách, chăm sóc 3 đứa con thơ lần lượt ra đời.

Khi ông Sắc đi Huế ôn thi, do túng thiếu nên nhờ vợ lên kinh giúp đỡ, bà Hoàng Thị Loan để con gái đầu lòng mới 11 tuổi ở lại đỡ đần ông bà ngoại, còn mình đưa hai con trai là Nguyễn Sinh Khiêm (7 tuổi) và Nguyễn Sinh Cung (5 tuổi, sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh) vào Huế. Ở đây, bà nuôi sống gia đình bằng nghề dệt vải.

Công việc vất vả, sức khỏe lại yếu dần sau lần sinh người con thứ tư (năm 1900), bà Loan sinh bệnh rồi qua đời ở tuổi 33 vào tháng 2/1901, chỉ một ngày trước lễ ông Táo chầu trời, trong khi chồng và con trai cả đang ở Thanh Hóa. Đám tang ngày giáp Tết chỉ có cậu con trai thứ Nguyễn Sinh Cung mới 11 tuổi.

Mộ bà Hoàng Thị Loan.

Hơn 11 năm sau, hài cốt của bà được con gái đầu lòng là Nguyễn Thị Thanh đưa về an tang tại vườn nhà, và đến năm 1942 được trưởng nam Nguyễn Sinh Khiêm cải táng ở núi Đại Huệ. Khu mộ của bà ở đây được xây lại khang trang, đẹp đẽ từ năm 1984.

Tuy cuộc đời ngắn ngủi, bà Hoàng Thị Loan có ảnh hưởng lớn đến các con mình không chỉ ở sự tần tảo, hy sinh. Với tấm lòng nhân hậu, thương người, bà dạy con những bài học về đạo lý làm người, lòng nhân ái từ những ngày thơ ấu, truyền cho con tình yêu đối với văn hóa dân gian, với quê hương đất nước. Vì thế, trừ người con út sớm qua đời chỉ sau mẹ ít lâu, cả ba người con lớn của bà đều dành trọn cuộc đời cho đồng bào, đất nước.

Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Thứ

Không sinh ra vĩ nhân, nhưng nhân dân Việt Nam vẫn nghiêng mình trước bà Nguyễn Thị Thứ (1904 – 2010, sống ở Điện Bàn, Quảng Nam), người truyền tình yêu nước cho các con để cống hiến hết mình cho sự nghiệp chống ngoại xâm.

Hiếm có người mẹ nào chịu nhiều đau khổ như bà Thứ, khi 9 người con mang nặng đẻ đau lần lượt hy sinh trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Nhưng dù  nhận giấy báo tử của con, bà vẫn không ngăn cản những đứa con khác lên đường.

Mẹ anh hùng Nguyễn Thị Thứ.

Trong lúc chờ đợi, bà Thứ đào 5 hầm bí mật trong vườn nhà, cùng con gái đầu Lê Thị Trị (cũng là Bà mẹ Việt Nam anh hùng, có chồng và 2 con gái là liệt sĩ) nuôi giấu nhiều cán bộ, bộ đội, du kích Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Để ngụy trang, bà thả hàng chục con bò ăn cỏ ngay trong vườn, những lúc không có ai lai vãng thì hé cửa hầm cho người phía dưới dễ thở, khi có động thì giả vờ trông coi lũ bò để chỉnh lại.

Bà Nguyễn Thị Thứ trao tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 1994. Khi đến thăm, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh cầm tay bà và nói: "Mẹ đã tiếp thêm nghị lực cho chúng con vững bước. Mẹ là Mẹ Việt Nam".

Năm 2009, Tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng được xây dựng trên đỉnh núi Cấm, thành phố Tam Kỳ, Quảng Nam, lấy nguyên mẫu từ hình tượng của bà. Thị trấn Vĩnh Điện, huyện Điện Bàn hiện cũng có con đường tên là Mẹ Thứ.

Thái hậu Từ Dụ

Bà tên thật là Phạm Thị Hằng (1810 – 1902), là trưởng nữ của quan Lễ bộ thượng thư Phạm Đăng Hưng, từ nhỏ đã nổi tiếng hiếu đễ. Năm 14 tuổi, bà được tuyển làm thiếp cho hoàng tử Miên Tông (sau là vua Thiệu Trị). Khi chồng lên ngôi, bà chỉ là cung tần, nhưng nhờ thông minh và đức hạnh nổi bật, vua Thiệu Trị ngày càng yêu mến, tin cẩn và nâng bà lên hàng nhị giai phi, rồi phong Nhất giai Quý phi, đứng đầu các phi hàng nhất giai.

Khi vua ngự ở Khâm Văn điện nghe chính sự cùng các cơ mật đại thần, Quý phi được lệnh ở sau rèm cùng nghe. Sau đó khi vua hỏi, bà thuật lại không sai một chữ và có thể đưa ra lời khuyên giải. Ở ngôi cao, bà vẫn luôn thể hiện lòng nhân từ với mọi người trong cung, chăm nom, yêu mến tất cả các hoàng nam, hoàng nữ dù không do mình sinh hạ.

Khi lên ngôi, vua Tự Đức con trai bà muốn tấn tôn mẹ là thái hậu nhưng hết lần này đến lần khác bà chối từ, hai năm sau mới chấp nhận. Thái hậu Từ Dụ thường nhắc nhở Tự Đức về đạo làm vua, “phải dùng những ông quan thanh liêm, có lòng nhân nghĩa để lương dân bớt khổ”. Và dù con là bậc chí tôn, bà vẫn dạy dỗ nghiêm khắc.

Tự Dụ Hoàng thái hậu trong tranh vẽ.

Có lần Tự Đức đi săn, gặp phải nước lụt không kịp về cung trong khi chỉ 2 ngày nữa là giỗ Thiệu Trị. Nửa đêm về đến nơi, vua vội đi thẳng sang cung mẹ, lạy xin chịu tội. Đức Từ Dũ ngồi xoay mặt vào màn, im lặng. Vua bèn lấy cây roi mây dâng lên rồi nằm xuống xin chịu đòn, bà mới quay ra bảo: “Thôi, tha cho! Đi chơi để cho quan quân cực khổ thì phải ban thưởng cho người ta, rồi sớm mai đi hầu kị”. Đêm đó vua phải thức rất khuya để thực hiện những điều mẹ dạy.

Bà cũng nhắc vua Tự Đức về sở thích đi săn: “Vật cũng như người, bắn chết con trống thời con mái thương nhớ, bắn con thời con mẹ thảm buồn, rứa thời bắn mà làm chi? Muốn tập bắn thời bắn súng điểu thương cho quen, bắn bia hay hơn”.

Từ Dụ thái hậu nổi tiếng về lối sống tiết kiệm. Có lần Tự Đức thấy cãi túi đựng kính của mẹ cũ quá, nhiều chỗ sứt chỉ, bèn xin đổi cái khác. Thái hậu nói: “Nếu đổi cái đãy mới thì lâu rồi nó cũng sẽ cũ như rứa. Chi bằng cứ để nó mà dùng có tiện hơn không". Hằng ngày, cung nhân dâng đèn sáp để thắp sáng, bà cho cất bớt đi, lâu ngày dồn được nhiều lại đem vào kho của triều đình.

Tiết kiệm như vậy một phần vì thái hậu rất thương dân. Việc bà luôn từ chối làm lễ mừng thọ cho mình cũng vì không muốn làm khổ dân.  Bởi vậy, vua Tự Đức rất tôn kính mẹ, những lời mẹ dạy đều được ông ghi vào sách Từ huấn lục.

Mẹ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

Bà tên là Nhữ Thị Thục, người huyện Tiên Minh, xứ Hải Dương (nay là huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng), là con gái quan Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan. Nổi tiếng là nữ lưu phong vận tài hoa bậc nhất chốn kinh kỳ thời bấy giờ, bà không chỉ hay chữ và có tài thơ văn mà còn có tiếng xem tướng giỏi.

Cũng vì khó có ai lọt mắt xanh nên bà Nhữ Thị Thục lấy chồng muộn. Điều khiến ai nấy kỳ lạ là bà chọn kết duyên với ông Nguyễn Văn Định, một thầy đồ ít tiếng tăm, xuất thân bình thường. Tương truyền, bà chọn ông vì cho rằng người này có tướng sinh quý tử, thậm chí còn tính toán chọn ngày giờ hợp cẩn để sinh ra Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Đặt kỳ vọng lớn vào con trai, bà dồn tâm sức dạy dỗ rất kỳ công, từ những bài hát ru, những câu dân ca, những câu thơ do mình sáng tác đến các sách kinh điển. Đến khi thấy kiến thức của mình không còn đủ nữa, bà gửi Nguyễn Bỉnh Khiêm cho những nhà nho nổi danh dạy dỗ.

Nói về kỳ vọng của bà Thục đối với con trai, trong dân gian có kể, một hôm bà đi vắng, ông Định ở nhà với con, tình cờ hát: “Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung”. Nguyễn Bỉnh Khiêm đối lại: “Vịn tay tiên, nhè nhẹ rung”. Khi vợ về, ông Định đắc ý kể lại, không ngờ bà thở dài: “Nuôi con mong làm vua làm chúa, cớ sao lại mong làm bầy tôi“ (nguyệt chỉ bầy tôi).

Có lần bà dạy Bỉnh Khiêm câu hát: “Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con tựa ngai vàng”. Ông Định rất sợ triều đình bắt tội nên sửa lại thành “vịn ngai vàng”.

Sau nhiều mâu thuẫn như vậy, bà Thục bỏ nhà đi, nên Nguyễn Bỉnh Khiêm lớn lên chỉ được ở gần bố. Tuy vậy, từ nền tảng do người mẹ hun đúc, ông trở thành một tài năng lớn đến vua chúa cũng kính nể.

Tại hội thảo "Vai trò của người mẹ và dòng họ ngoại với danh nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm", cố giáo sư sử học Trần Quốc Vượng từng nhận xét, bà Nhữ Thị Thục là một trong 3 người phụ nữ nổi tiếng, tài trí hơn người của Việt Nam thế kỷ 16, bên canh nữ trạng nguyên Linh phi Nguyễn Thị Duệ và Quận công Nhữ Thị Thuận.

 

Minh Nhật (Tổng hợp)

Tin mới