Đánh giá trên được ông Christophe Lemiere - Quản lý Chương trình phát triển con người của Ngân hàng Thế giới (World Bank- WB) chia sẻ tại Hội thảo Giáo dục Việt Nam 2020 với chủ đề “Tự chủ đại học - Từ chính sách đến thực tiễn” diễn ra ngày 27/11.
Ông Christophe Lemiere cho biết, hiện Việt Nam phân bổ 5% tổng GDP của cả nước cho giáo dục, riêng giáo dục bậc đại học được đầu tư 0,33% (chiếm 6.1% tổng mức đầu tư của Chính phủ cho giáo dục). Mức đầu tư này rất thấp so với các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Theo ông Christophe Lemiere, việc quản trị đại học của Việt Nam còn tổ chức khá manh mún và rời rạc. Khoảng cách giữa chính sách và thực tế còn chưa bám sát, nhiều trường đại học tự chủ nhưng chưa thật sự gắn kết với doanh nghiệp trong việc trao đổi và hướng dẫn sinh viên. Nguồn kinh phí hoạt động chủ yếu của nhà trường đến từ việc thu học phí của sinh viên mà chưa đẩy mạnh xã hội hoá và hợp tác với doanh nghiệp.
Tuy mức đầu tư còn thấp nhưng đại diện World Bank cũng ghi nhận giáo dục đại học Việt Nam những năm qua đã có nhiều thành tích đột phá. Điển hình như việc thay đổi tích cực đối với sự quản trị đại học hiện đại; ban hành Luật Giáo dục đại học (2018); thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập năm 2014-2017.
Đồng thời, mức tuyển sinh các trường đại học cũng tăng gấp đôi kể từ năm 2000 (trên 50% là nữ); tỷ lệ phần trăm giảng viên đại học có bằng thạc sĩ/tiến sĩ hiện nay đạt trên 75%; phát triển chương trình đào tạo và được quốc tế công nhận; Số lượng công bố quốc tế trong nghiên cứu khoa học tăng gấp 3 lần. Ngoài ra, các trường đại học Việt Nam đã xuất hiện trong các bảng xếp hạng đại học uy tín trên thế giới.
Từ đó, đại diện World Bank chỉ ra một số hạn chế trong môi trường tự chủ đại học ở nước ta hiện nay như việc phân bổ các quỹ công còn hạn chế, vẫn dựa trên các định mức truyền thống, không dựa trên kết quả hoạt động hoặc vốn chủ sở hữu.
Đồng thời, công tác nghiên cứu của trường đại học nhìn chung còn ít tài trợ, quản lý lỏng lẻo, chất lượng hợp tác còn hạn chế. Các thủ tục chuẩn bị và giải ngân vốn đầu tư phức tạp, chưa đủ thu hút tài trợ ở cả khu vực công lẫn thị trường tín dụng tư nhân. Học bổng và các khoản vay dành cho sinh viên thấp, điều khoản vay – trả chưa đủ hấp dẫn.
Tỷ lệ tiếp cận giáo dục đại học của Việt Nam vẫn thấp hơn so với một số nước khu vưc châu Á.
Ông Christophe Lemiere cũng cho biết, mức độ tiếp cận giáo dục đại học ở Việt Nam còn thấp; tỷ lệ tuyển sinh theo nhóm quỹ phúc lợi không đồng đều, thậm chí chênh lệnh lớn; chất lượng giáo dục còn chênh lệch giữa các nhóm kỹ năng của người học và sự chuyển giao các nghiên cứu và công nghệ diễn ra ở mức thấp.
Tỷ lệ tuyển sinh theo nhóm quỹ phúc lợi không đồng đều, thậm chí chênh lệnh lớn. Chất lượng giáo dục còn chênh lệch giữa các nhóm kỹ năng của người học và sự chuyển giao các nghiên cứu và công nghệ diễn ra ở mức thấp.
Từ đó, ông Christophe Lemiere đề xuất Chính phủ cần tăng mức đầu tư cho giáo dục từ 0,33% lên 0,80% trước năm 2030. Hướng tới da dạng thể chế, chuyển dịch từ trường đại học công lập đầu tư tốn kém sang các trường dân lập, cao đẳng có chí phí đầu tư hiệu quả hơn. Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia đang làm rất tốt vẫn đề này.
Đồng thời, tăng mức đầu tư, nâng cao năng lực cho hoạch định chính sách; thiết kế chương trình; giám sát và đánh giá. Thường xuyên cập nhật các chính sách về quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của giáo dục đại học với nguồn tài trợ của nhà nước. Chú trọng việc trao quyền cho các hội đồng trường để bổ nhiệm lãnh đạo và phê duyệt các chiến lược/ngân sách; khuyến khích giáo dục đại học đổi mới, cải cách hành chính, bao gồm: quản lý nhân sự/giảng viên, hợp tác quốc tế về nghiên cứu & phát triển, đại diện World Bank chia sẻ.