Trên thực tế, các triệu chứng của viêm mũi, họng ở trẻ không khó phát hiện, dù trẻ chưa biết nói. Đa phần triệu chứng đều lộ rõ trong các hoạt động thường ngày. Tuy nhiên, cha mẹ hay người chăm sóc trẻ cần lưu ý kỹ để phát hiện sớm, từ đó có cách xử trí phù hợp.
Liên quan vấn đề này, PGS.TS Phạm Thị Bích Đào, bộ môn Tai Mũi Họng, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, gợi ý một số biểu hiện gồm:
“Thông thường, trẻ thở bằng mũi chậm rãi, đều đặn, không có tiếng kêu và miệng ngậm lại. Nếu chúng ta bịt bớt một bên mũi trẻ vẫn tiếp tục thở một cách dễ dàng”, PGS Đào mô tả.
Tuy nhiên, trong trường hợp mũi bị tắc, trẻ sẽ thở khó khăn và có tiếng kêu. Khi bịt một bên mũi, trẻ sẽ bị ngạt.
Ngoài ra, để biết mũi trẻ có bị ngạt hay không, phụ huynh có thể bịt một bên mũi và đặt lưng bàn tay vào sát lỗ mũi bên kia để cảm giác được luồng gió đi qua. Mọi người có thể kiểm tra như vậy với từng lỗ mũi một.
Mặt khác, khi ngạt, trẻ phải thở bằng miệng nên họng thường bị khô, rát. Chất nhầy của mũi chảy xuống họng sẽ làm cho trẻ vướng họng, hay ho và bị trớ.
Việc phát hiện bệnh tai mũi họng ở trẻ không khó nhưng cần quan sát kỹ, nhất là ở trẻ sơ sinh. (Ảnh minh họa: carlo_navarro)
Một biểu hiện khác, với những trẻ đã biết nói, là tiếng nói không được rõ các phụ âm M, N (M đọc thành B và N đọc thành Đ). Lúc này, trẻ có thể nói bằng giọng lạ, gọi là giọng mũi tắc.
Ngạt tắc mũi cũng hay gây ra tắc vòi tai nên trẻ có thể bị nghễnh ngãng và ù tai, gọi trẻ lúc nghe được, lúc không, học sút kém. Tiếng thở của trẻ trở nên nặng, ban đêm ngáy to, thỉnh thoảng có những cơn ngạt thở và ho rũ do co thắt thanh quản.
“Nguyên nhân của sự co thắt này là phản xạ bị kích thích bởi nước bọt tràn vào thanh quản. Hiện tượng này thường xảy ra ở trẻ bị viêm V.A và viêm thanh quản”, vị chuyên gia giải thích.
Ở trẻ sơ sinh, ngạt tắc mũi làm trẻ bú khó khăn, bú không được dài hơi như trước vì khi bú, trẻ không thở được bằng miệng nữa nên mỗi lúc lại phải dừng, há mồm thở để lấy thêm oxy rồi bú tiếp, chính điều này làm cho trẻ dễ bị sặc.
Với một số trẻ lớn, phụ huynh có thể hỏi để phát hiện được thêm triệu chứng mất ngửi khi ngạt tắc mũi.
Một số trường hợp trẻ bị viêm mắt tái phát nhiều lần vì viêm nhiễm từ mũi đi lên, nếu điều trị mắt đơn thuần sẽ không giải quyết được triệt để (mắt có ống lệ tỵ thông xuống mũi), những trẻ này phải khám thêm chuyên khoa tai mũi họng.
Một vấn đề khác là những trẻ bị tắc mũi đều bị thiếu không khí. Do đó, trẻ không được linh hoạt. Ban đêm hay có những cơn ác mộng làm cho trẻ khóc thét. Trẻ lớn hay bị nhức đầu và không tập trung tư tưởng khi học tập.
Theo PGS Đào, việc phát hiện dấu hiệu chảy mũi đôi khi cũng gây ra khó khăn đối với phụ huynh.
“Thông thường, nếu chảy mũi ra cửa mũi trước, bố mẹ rất dễ phát hiện nên trong trường hợp này, ít khi trẻ bị các biến chứng của viêm mũi. Mặt khác, mọi người thường không phát hiện được khi nước mũi chảy ra phía sau rồi rơi xuống họng. Những trường hợp này xảy ra khi hốc mũi bị phù nề nhiều, cản trở chảy ra trước hoặc khi bị viêm hệ thống xoang sau”, vị chuyên gia thông tin.
Lúc này, trẻ sẽ có cảm giác vướng họng, hay phải ho, khạc đờm hoặc buồn nôn, nôn.
PGS Phạm Thị Bích Đào cho hay chứng rối loạn ngửi ở trẻ nhỏ rất khó phát hiện do trẻ không hợp tác với phụ huynh. Chủ yếu ông bà, bố mẹ sẽ thấy trẻ kém ăn dần.
Nguyên nhân là trẻ không ngửi thấy vị thơm từ thức ăn gây kích thích trung tâm thèm ăn, đồng thời giảm xuất tiết nước bọt - một chất giúp quá trình tiêu hóa thức ăn.
Với những trẻ này, vị chuyên gia khuyên gia đình nên đưa con đi khám để kiểm tra mũi họng, qua đó xác định chính xác bệnh.
“Hội chứng này khá ít gặp nên bố mẹ thường không thể xác định được bệnh lý này là gì”, PGS Đào cho hay.
Một số biểu hiện của hội chứng này bao gồm:
Trên thực tế, PGS Đào cho hay đây là băn khoăn của rất nhiều cha mẹ khi trẻ bị viêm mũi họng. Sử dụng kháng sinh như thế nào để tránh tình trạng kháng thuốc cũng như nâng cao khả năng miễn dịch cho trẻ, hạn chế những tổn thương gan thận có thể xảy ra khi dùng kháng sinh.
Về vấn đề này, vị chuyên gia cho biết trẻ sơ sinh sau 6 tháng hay bị các bệnh lý về tai mũi họng do hết lượng miễn dịch của mẹ truyền cho khi sinh.
Việc sử dụng kháng sinh cho trẻ nên được bác sĩ quyết định. (Ảnh minh họa: kelly_sikkema)
“Những bệnh lý trẻ mắc phải tới 80% là do virus. Do đó, thông thường chỉ cần dùng các thuốc chữa triệu chứng như hạ sốt, giảm ho nhóm long đờm, chống ngạt tắc mũi… để cơ thể trẻ có khả năng tự sản sinh ra kháng thể chống lại các bệnh lý này”, PGS Đào khuyến cáo.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nếu điều trị các triệu chứng này không đúng cách như dùng thuốc giảm ho loại ức chế trung tâm hô hấp, cha mẹ sẽ vô tình làm mất khả năng bảo vệ phổi của trẻ qua phản xạ ho tống dịch ra ngoài, dẫn đến các biến chứng như viêm phế quản, viêm phổi.
Bởi vậy, chúng ta cần theo dõi cẩn thận nếu thấy xuất hiện các triệu chứng của bội nhiễm vi khuẩn như nước mũi vàng xanh, hơi thở hôi… Lúc này, trẻ cần được dùng kháng sinh kịp thời.
“Hậu quả những trẻ dùng kháng sinh phải hứng chịu là cơ thể mất chức năng đề kháng, phụ thuộc vào thuốc mỗi khi bị bệnh nên rất dễ nhiễm bệnh. Bên cạnh đó, sức kháng thuốc của vi khuẩn trong cơ thể trẻ ngày càng tăng đến khi không còn đáp ứng với bất kỳ nhóm kháng sinh nào. Đây là những trường hợp nan giải cho các bác sĩ điều trị”, PGS Đào cảnh báo.
Mặt khác, việc sử dụng kháng sinh liên tục sẽ làm tổn thương một số cơ quan còn non nớt của trẻ như gan, thận, tụy. Hậu quả này thường sau một thời gian mới xuất hiện nên không được chú ý.
Do đó, tốt nhất, gia đình nên đưa con đi khám ngay mỗi khi trẻ bị bệnh để có được lời khuyên chính xác và phải tuyệt đối tin tưởng, làm theo đúng hướng dẫn của bác sĩ điều trị.
Song song với đó, cần trao đổi ngay những thay đổi của trẻ, kể cả tốt lên hoặc xấu đi cho bác sĩ điều trị để có thể theo dõi và điều chỉnh các thuốc cho phù hợp.
Không nên đi khám một lúc nhiều bác sĩ vì mỗi người sẽ có quan điểm điều trị riêng hoặc có những từ ngữ chuyên môn khác nhau cho cùng một bệnh. Trong trường hợp bệnh nhân không hiểu có thể gây hoang mang.
PGS Phạm Thị Bích Đào cho hay viêm mũi họng có thể phòng ngừa được bằng cách:
Bệnh lý tai mũi họng thường đơn giản nhưng cũng có khả năng gây tử vong bởi các biến chứng như viêm màng não do tai, áp xe não do tai, viêm phổi nặng, bít lấp đường thở do dị vật, các nhiễm trùng trung thất gây ra bởi dị vật thực quản, biến chứng viêm cầu thận cấp, thấp tim…