Tầm bóp hay còn gọi lu lu cái, lồng đèn, thù lù cạnh, bôm bốp (danh pháp khoa học: Physalis angulata) là loài thực vật có hoa thuộc họ Cà (Solanaceae). Loài này được Carl Linnaeus miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Nguồn gốc của cây tầm bóp
Tầm bóp ở Việt Nam rất nhiều, nhưng ít được sử dụng dù có một số dược tính tốt. Chúng có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới, sau trở thành liên nhiệt đới. Thấy mọc hoang khắp nơi, ở trên các bờ ruộng, bãi cỏ, đất hoang hay ven đường làng quê. Cũng còn thấy ở ven rừng từ vùng thấp đến vùng có độ cao 1.500m so với mặt nước biển. Cây tầm bóp được dùng là dược liệu sử dụng tươi hay phơi khô dùng dần.
Là loại cây thảo mọc hoang quanh năm, cao 50 - 90cm, phân nhiều cành. Thân cây có góc, thường rủ xuống, lá mọc so le, hình bầu dục, chia thùy hay không, dài 30 - 35mm, rộng 20 - 40mm; cuống lá dài từ 15 - 30mm. Hoa mọc đơn độc, có cuống mảnh, dài khoảng 1cm. Đài hình chuông, có lông, chia ra từ phía giữa thành 5 thùy, tràng hoa màu vàng tươi hay màu trắng nhạt, có khi điểm những chấm màu tím ở gốc, chia 5 thùy.
Quả mọng tròn, nhẵn, lúc non màu xanh, khi chín màu đỏ, có đài cùng lớn với quả, dài 3 - 4cm, rộng 2cm, bao trùm lên ở ngoài như cái túi, hạt nhiều hình thận. Khi bóp quả vỡ phát ra tiếng bộp. Cây ra hoa kết quả quanh năm. Bộ phận sử dụng làm thuốc là toàn cây có tên dược là Herba physalis Angulatae.
Thành phần dinh dưỡng của cây tầm bóp
Dưỡng chất của cây tầm bóp: Năng lượng 205kcal; Calo 49kcal; Protein 1,5g; Cacbohydrat 11g; Đường 3,9g, Chất béo 0,5g; Chất xơ 0,5g; Protein 0,9g; Nước 81%.
Các khoáng chất của cây tầm bóp gồm: Vitamin C 28 mg; Lưu huỳnh 6 mg; Kẽm 0,1 mg; Sắt 1,3 mg; Natri 0,0005g; Magiê 12 mg; Canxi 12 mg; Phốt-pho 39 mg; Clo 2 mg. Trong 100g quả tầm bóp có 80% là cacbohydrat, 12% là protein, 8% là chất béo.
Hoa và quả của cây tầm bóp. (Ảnh do Lương y đa khoa Bùi Đắc Sáng cung cấp)
Cách sử dụng cây tầm bóp
Lương y đa khoa Bùi Đắc Sáng, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, Hội Đông y Hà Nội cho biết, cây tầm bóp thường dùng trị cảm sốt, yết hầu sưng đau, ho nhiều đờm, phiền nhiệt nôn nấc. Dùng 20-40g khô sắc uống. Dùng ngoài trị nhọt vú, đinh độc, đau bìu dái. Dùng 40-80g cây tươi giã vắt lấy nước cốt uống, bã thì dùng đắp; hoặc nấu nước rửa. Quả tầm bóp ăn được và dùng chữa đờm nhiệt sinh ho, thuỷ thủng và đắp ngoài chữa đinh sang. Rễ tươi nấu với tim lợn, chu sa ăn chữa được chứng đái tháo đường.
Ở Ấn Độ, toàn cây được sử dụng làm thuốc lợi tiểu, lá được dùng trị các rối loạn của dạ dày.
Những người hay lênh đênh sông nước nên ăn quả này thường xuyên vì lượng vitamin C và B1, tiền vitamin A trong quả tầm bóp rất cao nên rất tốt cho cơ thể, có thể chữa bệnh Scorbut vì trên biển không có hoa quả.
Ngoài ra quả tầm bóp còn có thể phòng ngừa các bệnh về đường tiết niệu và viêm thận ví dụ sỏi thận, sỏi bàng quang và chữa bệnh gút rất tốt. Quả để khô có thể làm mứt.
Ở châu Phi, họ ăn lá cây đã được nấu chín hoặc dùng như một tấm băng để băng các vết thương bị nhiễm trùng.
Lá cây tầm bóp có thể dùng để ăn lẩu, nấu canh nghêu, cua, tôm hoặc luộc xào đều rất ngon. Quả tầm bóp được bao bọc bởi một lớp vỏ mỏng có hình giống chiếc lồng đèn, có vị giống cà chua rất bổ dưỡng. Là một loại rau mọc dại nên lồng đèn dễ trồng, dễ sống.