Chiến thuật táo bạo của lực lượng tăng thiết giáp trong chiến dịch Hồ Chí Minh

Tham gia chiến dịch lớn nhất lịch sử quân sự Việt Nam, ta huy động 16 sư đoàn cùng 398 xe tăng, thiết giáp, pháo cao xạ và các lực lượng tinh nhuệ.

Quảng cáo

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ta tập trung một lực lượng lớn gồm 16 sư đoàn bộ binh cùng các đơn vị binh chủng, quân chủng tinh nhuệ, trong đó có 398 xe tăng, xe thiết giáp và pháo cao xạ tự hành. Đây là chiến dịch tiến công lớn nhất trong lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam, đồng thời cũng là chiến dịch có quy mô sử dụng xe tăng – thiết giáp lớn nhất trong toàn bộ quá trình kháng chiến.

Quân Giải phóng chuẩn bị lực lượng trước giờ tổng công kích vào Sài Gòn - Gia Định với tinh thần 'Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng' (26/4/1975). (Ảnh: Tư liệu/TTXVN)

Chiến dịch quy mô táo bạo

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, Lữ đoàn 203 thuộc Quân đoàn 2 là đơn vị đầu tiên tiến vào Dinh Độc Lập. Mặc dù vị trí xuất phát ban đầu của đơn vị này xa hơn các mũi tiến công khác, nhưng nhờ chiến thuật táo bạo "đánh địch ngay trong hành tiến" - tập trung lực lượng xe tăng, hình thành mũi đột kích mạnh, nhanh cho địch không kịp trở tay - họ có thể thần tốc đánh thẳng vào trung tâm Sài Gòn. 

Chiến dịch Hồ Chí Minh được cho là chiến dịch lớn nhất mà bộ đội Tăng – Thiết giáp từng tham gia. Gần như toàn bộ lực lượng chiến đấu của Binh chủng Tăng – Thiết giáp được tung vào trận quyết chiến chiến lược này, đóng góp vai trò to lớn đối với kết quả chiến thắng. 

Trước đó, sau hơn một tháng liên tục tiến công và nổi dậy, mà đỉnh cao là hai chiến dịch lớn – chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng, quân và dân ta tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn lực lượng vũ trang cũng như bộ máy chính quyền của địch tại hai quân khu, quân đoàn chủ lực (Quân đoàn 1 và Quân đoàn 2).

Kết quả đó mở rộng vùng giải phóng của ta, chiếm khoảng ba phần tư diện tích lãnh thổ và một nửa dân số toàn miền Nam. Một cục diện mới, chưa từng có trong lịch sử kháng chiến, mở ra cho cách mạng Việt Nam.

Trước thời cơ chiến lược thuận lợi đó, trên cơ sở nắm vững tình hình quốc tế và khu vực, đồng thời nhằm ngăn chặn quân đội VNCH củng cố và tăng cường lực lượng để làm thay đổi tương quan so sánh trên chiến trường, Bộ Chính trị chính thức hạ quyết tâm mở Chiến dịch Hồ Chí Minh – một chiến dịch tiến công hiệp đồng quân binh chủng nhằm giải phóng Sài Gòn – Gia Định.

Tham gia chiến dịch lịch sử này, ta tập trung một lực lượng lớn gồm 16 sư đoàn bộ binh cùng các đơn vị binh chủng, quân chủng tinh nhuệ, trong đó có 398 xe tăng, xe thiết giáp và pháo cao xạ tự hành.

Các đơn vị bộ binh và xe tăng tiến vào Sài Gòn trên xa lộ Biên Hoà.

Sự phân bố cụ thể của lực lượng theo từng mũi tiến công trong chiến dịch bủa vây khắp các hướng. Về hướng Bắc: Trong đội hình Quân đoàn 1, Lữ đoàn 202 được tăng cường thêm một tiểu đoàn, tổng cộng 67 xe (gồm 35 xe tăng, 29 xe bọc thép và 3 pháo phòng không tự hành).

Về hướng Tây Bắc: Trong đội hình Quân đoàn 3, Trung đoàn 273 vừa hoàn thành nhiệm vụ tại Tây Nguyên, tham gia với 83 xe (59 xe tăng, 24 xe thiết giáp).

Về hướng Tây và Tây Nam: Trong đội hình Binh đoàn 232, có 81 xe (47 xe tăng, 33 thiết giáp và 1 xe cứu kéo).

Về hướng Đông Bắc: Trong đội hình Quân đoàn 4, 3 tiểu đoàn tăng – thiết giáp góp mặt với 69 xe (61 xe tăng, 7 xe thiết giáp và 1 xe cứu kéo).

Về hướng Đông: Trong đội hình Quân đoàn 2, Lữ đoàn 203 được trang bị 81 xe (41 xe tăng, 34 thiết giáp, 1 xe cứu kéo). Ngoài ra còn có 17 xe tăng làm lực lượng dự bị chiến dịch.

Từng bước thọc sâu

Ngày 16/4, Quân đoàn 2 áp sát tuyến phòng thủ Phan Rang của địch.

Trong hồi ký, Tư lệnh Quân đoàn 2 – Trung tướng (sau này là Thượng tướng) Nguyễn Hữu An mô tả đội hình tiến công mở đầu với Tiểu đoàn bộ binh 1 được cơ động trên 20 xe tăng và thiết giáp, tiếp sau là các Tiểu đoàn 2 và 3 di chuyển bằng xe bánh lốp. Các đơn vị pháo 85mm và phòng không 37mm tham gia trực tiếp trong đội hình chiến đấu, sẵn sàng khai hỏa khi cần thiết. Phía sau, Lữ đoàn pháo binh 164 cơ động để chi viện hỏa lực. Với sức tấn công áp đảo, sau khoảng hai giờ giao chiến, lực lượng địch dù có quân số lên tới hơn 10.000 người đã nhanh chóng tan rã.

 Xe tăng của Lữ đoàn tăng – thiết giáp 203, Sư đoàn 304, Quân đoàn 2 tiến vào Dinh Độc Lập, trưa 30/4/1975. (Ảnh: Trần Mai Hưởng/TTXVN)

Tiếp tục khai thác hiệu quả của thế trận và chiến thuật mới, Quân đoàn 2 triển khai lực lượng thọc sâu nhằm tiến công vào Sài Gòn, sử dụng toàn bộ sức mạnh của Lữ đoàn xe tăng 203. Lực lượng thọc sâu được tổ chức bài bản, gồm đội hình đi đầu là xe tăng trinh sát chiến đấu cùng các Tiểu đoàn 1, 4, 5 và Lữ đoàn 203. Một số chiến sĩ bộ binh thuộc Trung đoàn 66 và đơn vị công binh đi cùng trên xe tăng. Đội hình tiếp theo bao gồm Tiểu đoàn bộ binh 7, đại đội pháo 85mm, tiểu đoàn cao xạ, công binh và các đơn vị thọc sâu khác. Trung đoàn 18, thuộc Sư đoàn 325, được bố trí phía sau làm lực lượng dự bị. Toàn bộ đội hình thọc sâu gồm khoảng 400 xe cơ giới.

Với lực lượng mạnh, khả năng cơ động cao và tinh thần “thần tốc, táo bạo”, mũi thọc sâu của Quân đoàn 2 vượt cầu Sài Gòn, cầu Thị Nghè và tiến thẳng vào Dinh Độc Lập vào sáng 30/4/1975 – trở thành đơn vị đầu tiên vào trung tâm đầu não của chính quyền VNCH.

Chiến thuật tập trung sức mạnh xe tăng – thiết giáp, đánh địch trong hành tiến không chỉ góp phần quyết định vào thắng lợi của Quân đoàn 2 mà còn đánh dấu bước phát triển quan trọng trong nghệ thuật sử dụng xe tăng trong chiến đấu tại Việt Nam.

Trung úy Bùi Quang Thận, Đại đội trưởng xe tăng 4 (cầm cờ, phía trước) cùng 3 chiến sĩ của Lữ đoàn Tăng – Thiết giáp 203, Sư đoàn 304, Quân đoàn 2 tiến vào cắm cờ trên nóc Phủ Tổng thống Ngụy quyền Sài Gòn, trưa 30/4/1975. (Ảnh: Vũ Tạo/TTXVN)

Sự tỉ mỉ làm nên sức mạnh

Mặc dù quân đội VNCH rút lui trong tình trạng hỗn loạn, họ vẫn kịp phá hủy nhiều cầu, cống trên Quốc lộ 1 nhằm cản bước tiến công của ta. Trên hành trình hành quân, Quân đoàn 2 phải vượt qua tới 569 cây cầu, trong đó có 14 cây cầu bắc qua sông lớn. Nhiều cây cầu như Câu Lâu, Bà Bầu, An Tân...  bị địch đánh sập.

Trong khi đó, lực lượng công binh cầu phà của Quân đoàn quá mỏng, chỉ có thể ghép được bốn phà 50 tấn. Việc đưa xe tăng theo kịp đội hình để kịp thời tham chiến, trở thành yêu cầu cấp bách. Giải pháp khắc phục nhanh chóng các chướng ngại là điều sống còn.

Trong tập ký Theo vết xích xe tăng, Đại tá Nguyễn Chí Tam chia sẻ kinh nghiệm xử lý tình huống vượt cầu yếu nhằm rút ngắn thời gian chờ phà trong hành quân. Khi cùng một số cán bộ tiểu đoàn và đại đội tiến hành khảo sát cây cầu sắt đầu tiên phía nam phà An Tân — dài khoảng 70–80 mét, hai đầu đặt trên bờ, trong đó đầu phía bắc có một số đoạn đường bị lún — họ nhận thấy cầu không có biển báo tải trọng và người dân địa phương khẳng định chưa từng thấy xe tăng M48 của Mỹ qua lại tại đây.

Xe tăng của Quân đoàn 1 vượt sông, chuẩn bị tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, ngày 2/4/1975. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN)

Từ vị trí này đến Sài Gòn còn nhiều cây cầu tương tự. Nếu phải chờ công binh đến kiểm tra và bảo đảm an toàn từng cây cầu một, thời gian hành quân của lực lượng xe tăng sẽ bị chậm trễ, ảnh hưởng đến toàn bộ kế hoạch tác chiến của Quân đoàn. Vì vậy, tìm giải pháp vượt cầu nhanh chóng nhưng vẫn đảm bảo an toàn là yêu cầu cấp thiết.

Trước tình hình đó, ông Tam đưa ra quyết định dựa trên kinh nghiệm cá nhân, nhận định rằng xe tăng hoàn toàn có thể vượt cầu nếu được điều khiển đúng kỹ thuật. Ông chọn ra một nhóm lái xe có tay nghề cao và trực tiếp hướng dẫn các nguyên tắc cần tuân thủ khi vượt cầu, như sử dụng số thấp, giữ vòng tua máy ổn định, tránh tăng ga đột ngột. Đồng thời, để phòng tình huống bất ngờ, ông yêu cầu mở cửa tháp pháo và hướng dẫn lái xe cách thoát hiểm nếu cầu xảy ra sự cố.

Trong thời khắc chiếc xe tăng đầu tiên tiến lên cầu, mọi ánh mắt đều dõi theo. Cầu bắt đầu rung và võng xuống, nhưng xe vẫn tiếp tục tiến về phía trước. Khi toàn bộ thân xe nằm gọn trên mặt cầu mà không xảy ra sự cố, rồi vượt qua an toàn, ông Tam vui mừng chạy lên đường thông báo rằng việc qua cầu thành công, mở đường cho toàn bộ đội hình tiếp tục hành quân.

Nhờ áp dụng thành công kinh nghiệm này, hai tiểu đoàn xe tăng của Lữ đoàn 203 vượt quãng đường dài 900 km, băng qua hàng chục cây cầu yếu, và kịp thời hội quân vào rạng sáng ngày 24/4 – trước thời điểm mở màn Chiến dịch Hồ Chí Minh đúng 63 giờ. Việc đến đúng thời gian giúp Lữ đoàn 203 tập trung toàn bộ sức mạnh, trở thành mũi đột kích thọc sâu, tiến vào Dinh Độc Lập trong sáng 30/4/1975, góp phần quyết định vào thắng lợi trọn vẹn của chiến dịch.

Lực lượng thọc sâu của Quân đoàn 1 vượt đường 16 tiến vào giải phóng Sài Gòn. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN)

Các loại xe tăng - thiết giáp trong chiến dịch

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ta huy động nhiều loại xe tăng thiết giáp: T-54, Type 59, PT-76, K-63-85, BTR-60, K-63... Nhìn lại chiến dịch lịch sử, một số xe đã trở thành huyền thoại.

T-54 là xe tăng chiến đấu chủ lực do Liên Xô phát triển đầu những năm 1950, được trang bị pháo 100mm, giáp khá dày và có khả năng cơ động tốt. Đây là một trong những loại xe tăng được sản xuất nhiều nhất trên thế giới và đã tham gia nhiều chiến dịch lớn trong kháng chiến chống Mỹ ở Việt Nam.

Type 59, còn gọi là T-59, là phiên bản Trung Quốc phát triển từ T-54, có hình dáng và tính năng tương tự, cũng sử dụng pháo 100mm và rất phổ biến trong các lực lượng vũ trang Việt Nam thời kỳ kháng chiến.

PT-76 là xe tăng lội nước hạng nhẹ của Liên Xô, nổi bật với khả năng bơi qua sông, trang bị pháo 76,2mm và giáp mỏng. Loại xe này tỏ ra rất hiệu quả ở các vùng đồng bằng sông nước như miền Tây Nam Bộ. Trong khi đó, BTR-60 là xe thiết giáp chở quân bánh hơi 8 bánh của Liên Xô, có thể chở khoảng 12 lính, trang bị súng máy hạng nặng và có khả năng lội nước, phù hợp cho tác chiến cơ động và bảo vệ lực lượng bộ binh.

K-63 là xe thiết giáp chở quân 4 bánh do Trung Quốc sản xuất, lấy mẫu từ BTR-40 của Liên Xô. Xe nhỏ gọn, cơ động tốt, có thể chở một nhóm binh sĩ và được sử dụng phổ biến trong chiến tranh Việt Nam.

Phiên bản cải tiến là K-63-85 do Việt Nam phát triển, được trang bị thêm pháo 85mm nhằm tăng khả năng yểm trợ hỏa lực, thích hợp cho các đơn vị thiết giáp cơ động trong thời kỳ sau 1975. Các loại xe này không chỉ đóng vai trò quan trọng trong chiến đấu mà còn là biểu tượng cho sự phát triển và linh hoạt của lực lượng tăng – thiết giáp Việt Nam trong nhiều giai đoạn lịch sử.

Quá trình hình thành – phát triển lực lượng tăng thiết giáp

Sau năm 1954, đáp ứng yêu cầu cách mạng, Tổng Quân ủy ban hành Nghị quyết và hai Kế hoạch 5 năm xây dựng quân đội, trong đó xác định Tăng Thiết giáp là binh chủng mới, hiện đại. Ngày 5/10/1959, Bộ Quốc phòng thành lập Trung đoàn xe tăng 202 – đơn vị Tăng Thiết giáp đầu tiên, đánh dấu sự ra đời chính thức của binh chủng này. Từ đó, ngày 5/10 trở thành ngày truyền thống của Bộ đội Tăng Thiết giáp.

Ngày 22/6/1965, Bộ Tư lệnh Tăng Thiết giáp và Trung đoàn 203 được thành lập, đảm nhiệm chỉ huy và phát triển lực lượng. Sau khi thành lập, binh chủng Tăng Thiết giáp nhanh chóng huấn luyện, diễn tập và tham gia bảo vệ miền Bắc. Năm 1967, Trung đoàn 203 đưa Tiểu đoàn 198 hành quân vào miền Nam. Năm 1968, Tăng Thiết giáp lần đầu tham chiến hiệp đồng binh chủng tại Tà Mây – Làng Vây, giành thắng lợi, khẳng định vai trò xe tăng trong điều kiện Việt Nam.

Giai đoạn 1968–1971, Tăng Thiết giáp tham gia 29 trận ở Lào. Năm 1972, với 10 tiểu đoàn và 322 xe tăng – thiết giáp, lực lượng này góp mặt trong 82 trận của cuộc tiến công chiến lược. Giai đoạn 1973–1974, Tăng Thiết giáp chiến đấu 26 trận ở Nam Bộ, bảo vệ vùng giải phóng và tuyến vận tải chiến lược 559.

Quân Giải phóng đánh chiếm trường thiết giáp của VNCH tại căn cứ Nước Trong (Biên Hoà).

Trong Chiến dịch Tây Nguyên (3/1975), Tăng Thiết giáp tham gia 16 trận, mở màn giải phóng Buôn Ma Thuột. Trong các chiến dịch giải phóng Thừa Thiên – Huế và Đà Nẵng, lực lượng Tăng Thiết giáp với 168 xe phối hợp đánh 20 trận. Đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh: Tăng Thiết giáp dẫn đầu 5 mũi tiến công thần tốc, trong đó hai xe tăng 843 và 390 húc đổ cổng Dinh Độc Lập, đánh dấu thắng lợi hoàn toàn ngày 30/4/1975.

Từ trận Tà Mây – Làng Vây đến Chiến dịch Hồ Chí Minh, Bộ đội Tăng Thiết giáp tham gia 14 chiến dịch, 211 trận đánh, lập nhiều chiến công. Trong thời kỳ đổi mới, lực lượng tiếp tục phát huy truyền thống, xây dựng vững mạnh, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống.

Quảng cáo