Theo BSCKI Lê Ngọc Vinh, khoa Ngoại vú - Đầu mặt cổ, Phòng khám Đa khoa Tâm Anh quận 7, TP.HCM, hiện chưa có căn cứ khẳng định lá xạ đen có tác dụng điều trị ung thư vú.
Các nghiên cứu hiện tại chỉ thử nghiệm trên chuột, cho thấy dịch của lá xạ đen được lọc với kỹ thuật cao tác dụng với hai dòng tế bào ung thư gan và ung thư phổi ở chuột. Tuy nhiên, những nghiên cứu dùng kỹ thuật cao để tách chiết, quy mô nhỏ, chưa thực hiện trên người. Do đó, cần nhiều nghiên cứu hơn để đánh giá hiệu quả của loại cây này trong điều trị khối u nói chung và ung thư vú nói riêng.
Chưa có căn cứ khẳng định lá xạ đen có tác dụng điều trị ung thư vú. (Ảnh minh hoạ)
Ung thư vú làn guyên nhân gây tử vong do ung thư hàng đầu ở phụ nữ trên thế giới. Phương pháp điều trị chính là phẫu thuật, hóa trị, xạ trị theo y học hiện đại.
Cây xạ đen phân bố rộng rãi ở châu Á, nhiều lợi ích sức khỏe như chứa chất glycoside steroid làm chậm và điều hòa nhịp tim. Chất chống oxy hóa flavonoid góp phần chống viêm loét, an thần, tăng tuần hoàn máu não. Chất alkaloid ức chế hoặc kích thích hệ thần kinh trung ương, tác dụng lên hệ thần kinh giao cảm và phó giao cảm, ảnh hưởng đến huyết áp.
Bạn nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng bất cứ loại thuốc nào trong quá trình điều trị ung thư vú. Không tự ý dùng các loại lá cây để chữa ung thư.
Khi cơ thể xuất hiện u, người bệnh nên đến bác sĩ để được khám và điều trị hiệu quả. Phụ nữ nên tầm soát ung thư vú định kỳ hàng năm ở những cơ sở y tế có đầy đủ phương tiện chẩn đoán cận lâm sàng như siêu âm vú, nhũ ảnh.
Y học hiện đại phát triển với nhiều phương pháp điều trị ung thư vú giúp đạt hiệu quả cao, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, ung thư vú giai đoạn 0 có tỷ lệ sống trên 5 năm đến 99%. Người bệnh có thể cắt toàn bộ tuyến vú, hoặc phẫu thuật lấy khối u và cắt rộng thêm 1-2 cm, sau đó xạ trị bổ sung.
Ở giai đoạn một, bướu nhỏ dưới 2 cm, chưa di căn hạch, điều trị thường chỉ cần phẫu thuật cắt rộng khối u và xạ trị hoặc cắt tuyến vú, sau đó tiếp tục điều trị nội tiết. Ở nhóm này, tỷ lệ sống sau 5 năm có thể lên tới 99%. Ở giai đoạn 2-3, tỷ lệ sống 5 năm vẫn đạt 80-86%, ở giai đoạn 4 thì tỷ lệ này tương ứng 25-30%.