Ngày nay, việc tổ chức thi tuyển để chọn người tài đức giữ các vị trí quan trọng trong cơ quan Nhà nước không có gì lạ. Thời xưa, các vương triều Việt Nam cũng coi thi tuyển là phương thức quan trọng để chọn người làm quan. Thế nhưng thi tuyển vào vị trí quốc vương chắc chắn là chuyện xưa nay hiếm dù ở bất cứ đâu trên thế giới.
Nhưng chuyện này đã xảy ra ở Việt Nam, cụ thể là nước Văn Lang cổ thời Hùng Vương. Đây là triều đại tồn tại trong truyền thuyết và huyền sử, vì vậy câu chuyện thi đỗ vào vị trí vua này cũng là chuyện dân gian truyền miệng.
Cuộc "tuyển vua" kỳ lạ
Vị vua nói trên là Hùng Vương thứ 7. Trong 18 đời vua Hùng, ông là vị nổi tiếng nhất. Người Việt Nam vẫn biết đến ông qua cái tên lúc còn là hoàng tử: Lang Liêu.
Tương truyền, Hùng Vương thứ 6 có 33 con trai (con trai vua Hùng được gọi là quan lang) và 19 con gái (gọi là các mỵ nương, hay mệ nàng). Sau khi phá tan giặc Ân, đất nước bình yên, vua nghĩ đến chuyện tìm người kế thừa ngôi báu, bèn gọi các con trai đến phán rằng: “Ta muốn truyền ngôi cho kẻ nào làm ta vừa ý. Cuối năm nay, mỗi con hãy mang đến mâm cỗ với các thứ mỹ vị để ta dâng cúng tổ tiên, làm tròn đạo hiếu, cỗ của ai khiến ta vừa ý nhất thì sẽ được truyền ngôi”.
Mấy chục vị quan lang cho người tỏa đi khắp đất nước, từ rừng sâu, núi cao để biển cả xa xôi tìm của ngon vật lạ. Riêng vị lang thứ 18 có tên là Liêu vốn nghèo khó, mẹ trước kia bị vua cha ghẻ lạnh nên chết sớm, tả hữu ít người giúp đỡ nên nhìn quanh ngó quẩn không nghĩ được món gì dâng lên. Bỗng một đêm, Lang Liêu mộng thấy thần hiện lên bảo: “Các vật quý trong trời đất không gì bằng gạo. Gạo do người làm ra, có thể nuôi người khỏe mạnh mà ăn không bao giờ chán. Nay hãy đem gạo nếp làm bánh, cái hình vuông, cái hình tròn để tượng trưng cho trời đất rồi dùng lá bọc ngoài, ở trong cho mỹ vị để ngụ ý công đức sinh thành lớn lao của cha mẹ”.
Lang Liêu được lên ngôi nhờ dùng bánh chưng, bánh dày làm "bài thi".
Lang Liêu tỉnh dậy, càng nghĩ càng mừng, nói rằng: “Thần nhân giúp ta vậy!”. Rồi chàng cho người chọn thứ gạo nếp trắng tinh, chọn những hạt tròn mẩy nhất vo sạch để làm loại bánh hình vuông tượng trưng cho đất, ở giữa cho nhân gồm đậu xanh, thịt lợn, ngoài bọc lá xanh, đại diện cho cây cỏ muông thú. Bánh gói xong nấu trong nhiều giờ cho chín, gọi là bánh chưng. Chàng lại cho đồ chín gạo nếp giã nhuyễn, nặn thành bánh hình tròn tượng trưng cho trời, gọi là bánh dày.
Đến kỳ, các quan lang dâng lên vua cha những mâm cúng toàn của ngon vật lạ mà họ lùng kiếm ở chân trời góc bể, riêng mâm cỗ của quan lang thứ 18 là đơn sơ nhất, đến nỗi các anh em chàng đều tỏ ý cười cợt, xem thường. Không ngờ vua Hùng lại dừng lại ở mâm của Liêu lâu nhất. Ngài hỏi con trai về ý nghĩa, cách làm 2 loại bánh lạ, càng nghe càng gật gù hài lòng, cảm thấy 2 loại bánh này khi dâng cúng sẽ thể hiện được tấm lòng hiếu thảo, biết ơn của ngài đối với tổ tiên và trời đất. Vua bèn truyền ngôi cho Lang Liêu, người trở thành Hùng Vương thứ 7.
Làm vua 200 năm
Theo Ngọc phả Hùng Vương do Hàn lâm trực học sĩ Nguyễn Cố phụng mệnh vua Lê biên soạn vào năm 1470, vua Hùng thứ 7 có hiệu là Hùng Chiêu Vương, là một trong những vua Hùng sống rất thọ, ở ngôi đến 200 năm.
Cũng theo cuốn sách này, trong thời Hùng Chiêu Vương trị vì, đạo Phật được truyền vào nước ta. Từ các đời vua trước, Ngọc phả có nhắc đến đền chùa nhưng việc tế tự chỉ thấy nói đến thờ thần tiên, tổ tiên, đến vua Hùng thứ 7 mới thấy xuất hiện các từ của nhà Phật như biển Giác, Bát nhã, Niết bàn, ăn ở chay tịnh... Cụ thể, Ngọc phả viết: “…Bỗng thấy một lão ông mình vàng mặt ngọc cưỡi mây bay xuống. Vua lạy chào rồi mời lão ông vào trong điện chùa. Lão ông nói: ‘Ta là thần miền Tây Vực, cư trú lâu ngày ở biển Giác, chu du trên thuyền Bát nhã (trí tuệ), không nhiễm lòng trần. Nay ta đang đi phơi thuốc ở đường đến Niết bàn, thấy nơi đây dân chúng lòng thành cảm cách, râm ran tiếng cầu kinh xướng kệ, cho nên ta cảm ứng mà đến đây’.
Vua mừng thầm: ‘Nhân tâm thành ý, thiên ý tất thông’. Trong chốc lát, cụ già lấy trong ống tay áo ra một chiếc móng rồng bằng ngọc đem trao cho vương. Liền đó một đám mây ngũ sắc hiện ra sáng loá cả núi rừng. Lão ông bước lên đám mây ấy mà bay lên trời.
Bấy giờ Hùng Chiêu Vương mới biết đó là đức Phật bèn sụp quỳ lạy tạ. Ngày hôm ấy vua truyền cho bách quan triều thần ăn ở chay tịnh rồi lập đàn cúng ở chùa, cung thỉnh bách thần đến hội ở núi Thượng Linh".
Đời Hùng Chiêu Vương còn có một sự kiện đặc biệt nữa được Ngọc phả kể lại, đó là xuất hiện ấn kiếm tượng trưng cho vương quyền: “Rồi đó Chiêu Vương ngự giá về cung, sai đem khối ngọc khắc thành quả bảo ấn, đem chiếc móng rồng bằng ngọc tạc thành cái chuối kiếm. Trên mặt ấn khắc 3 chữ ‘Thiên Linh ấn’, trên chuôi gươm cũng khắc 3 chữ ‘Thiên Lĩnh nhẫn’. Từ đó xã tắc vô lo, triều đình yên tĩnh”.
Vua Hùng lấy vợ tiên
Sách Ngọc phả Hùng Vương kể, một hôm trời đẹp, quần thần tâu với Hùng Chiêu Vương: “Chúng thần nghe nói núi Tam Đảo là nơi quần tiên thường hay đến hội”. Vua vốn trọng việc quỷ thần, bèn truyền chuẩn bị xe loan đến đó thưởng ngoạn. Nơi đây cảnh đồi vóc núi gấm, lâu đài lớp lớp toả sáng, hoa cỏ đua thơm. Đầu ngọn núi nhỏ có ngôi chùa cổ tên là chùa Tây Thiên dựng trên khoảnh núi địa thế như con rồng trắng bay sà xuống.
Vua bèn cho dựng đàn tràng, sửa dọn lễ chay, sai quần thần dâng tiến đứng chầu, chính mình làm lễ bái yết; lại sai mở một tràng công đức ở trong chùa, vua thân đến dâng lễ, sớm cầu tối nguyện trong bảy ngày bảy đêm, trai gái bốn phương kéo về dự hội đông như mây họp. Chim chóc chốn sơn lâm, cá tôm dưới khe suối cũng được nghe kinh kệ.
Sau đó, vua đến bên khe Thạch Bàn để xem tiên cảnh, bỗng thấy trên lầu điện nguy nga khói sương lấp lánh, lâu đài đất Phật hiện lên, đúng là cảnh Bồng Lai. Vua bèn vào chùa Phù Nghi, đứng xem tiên đàn, khấn nhẩm lời cầu nguyện Hoàng thiên thượng đế, rồi gọi triều thần đến hội chầu. Khi mọi người đã sửa sang áo mũ nghiêm trang, vua đọc văn khấn: “Cúi nguyện Hoàng thiên cho các vị thần tiên giáng xuống cho tôi cùng triều thần có dịp hạnh ngộ, thoả lòng mong uớc ba sinh”.
Đọc chúc xong, vua sụp xuống lạy tạ. Nhưng sau ba ngày vẫn không thấy bóng dáng của các vị tiên. Hùng Chiêu Vương hồi hộp lo lắng, nhưng không biết phải làm thế nào, bèn hướng về tiên đàn thầm khấn. Đêm ấy, vua chiêm bao thấy một vị thần hiện lên mách bảo.
Trên đường về cũng, đến dưới núi, vua thấy một mỹ nhân cốt cách thanh cao đứng xem xa giá. Vua thích nhan sắc cô, bèn lấy làm vợ. Đến khi về cung, vua hỏi: “Nhà nàng ở đâu?” Cô gái đáp: “Thiếp là tiên nhân giáng sinh xuống trần ở Đông Lộ làm con của ông Trưởng. Thiếp đã mấy mùa hoa vịnh sử ngâm kinh, che châu giấu ngọc để đợi bậc anh hùng. Gần đây trộm nghe bệ hạ làm kinh động đến cả Tây Thiên, dựng đàn tràng muốn cầu tiên tử. Thiếp vì thế dẫu chẳng phải xa xôi cũng đến xem, may duyên trời tiền định cho thiếp được gặp quân vương, xin nguyện phụng hầu nơi màn trướng, không phụ nguyện ước ba sinh”.
Hùng Chiêu Vương nghe lời kể của mỹ nhân, biết hoàng thiên sai đưa tiên nữ đến cho mình, liền sai quần thần sắm sửa sính lễ, rồi ngự đến nhà ông Trưởng ở Đông Lộ xin nạp sính lễ, sau đó về kinh đô Phong Châu lập tiên nương làm vương phi. Chưa đầy năm, vương phi mang thai, sinh một trai anh tài trác việt, sau này nối ngôi, hiệu là Hùng Vĩ Vương.