Nhập thông tin
  • Lỗi: Email không hợp lệ

Đóng

Tác giả phi thuyền không gian Việt Nam hỏi: Bao giờ ta có SpaceX, Elon Musk?

(VTC News) -

Phạm Gia Vinh, kỹ sư trưởng chế tạo phi thuyền không gian thử nghiệm thành công tại Ấn Độ và Úc đặt câu hỏi: Bao giờ Việt Nam có SpaceX, Elon Musk?

Nhân sự kiện SpaceX của tỷ phú Elon Musk, công ty tư nhân đầu tiên trên thế giới phóng thành công tàu vũ trụ vào không gian, Phạm Gia Vinh - chàng trai trưởng nhóm chế tạo "phi thuyền không gian" đã thử nghiệm thành công tại Ấn Độ và Australia gửi bài viết dưới đây cho báo điện tử VTC News.

Lịch sử ngành hàng không - vũ trụ Hoa Kỳ đã mở ra một chương mới cho thế giới. Vào 2h22 ngày 31/5 (giờ Việt Nam), SpaceX phóng thành công tàu vũ trụ Crew Dragon chở hai phi hành gia NASA vào quỹ đạo trái đất.

Sự kiện này đưa SpaceX của tỷ phú Elon Musk trở thành công ty tư nhân đầu tiên đưa người vào không gian, kết thúc thời kỳ độc tôn của các tập đoàn vũ trụ quốc gia.

Robert Behnken và Douglas Hurley là nhà du hành thực hiện chuyến bay có người lái đầu tiên của SpaceX.

Thương vụ đầu tư mạo hiểm của NASA

Với NASA, chuyến bay là vụ “cá cược mạo hiểm” của họ dưới thời chính quyền Obama khi quyết định việc giao phó cho doanh nghiệp tư nhân chở các phi hành gia lên trạm vũ trụ. Nhưng NASA đã không lầm khi nhìn người. Họ đã thành công. Còn đối với SpaceX, đó là đỉnh cao của một cuộc phiêu lưu bắt đầu từ năm 2002 khi tỷ phú Elon Musk đặt mục tiêu đưa con người du hành tới sao Hỏa.

Khi Elon Musk lần đầu có ý tưởng tự mình thực hiện các chuyến bay vũ trụ vào cuối năm 2001, đến khi thực hiện chuyến bay thành công đầu tiên vào 28/9/2008, SpaceX đã đầu tư khoảng 200 triệu USD vào nghiên cứu phát triển tương đương trung bình 28,6 triệu USD/năm. Nhờ đó mà giá trị công ty SpaceX tại thời điểm 2012 đã là 1,2 tỷ USD và với thành công của chuyến bay tháng 5/2012, giá trị công ty đã tăng gấp đôi.

Thành công mang tính lịch sử của SpaceX là vào tài năng lãnh đạo xuất chúng của người sáng lập Elon Musk, nhưng phần khác nằm ở sự linh động, cởi mở trong quản lý nhà nước đối với những ngành nghề kinh doanh chiến lược cùng niềm tin đối với doanh nghiệp tư nhân.

Cụ thể, một phần vốn rất lớn (gần 500 triệu USD) của SpaceX có được là nhờ những hợp đồng thương mại đến từ NASA. Việc không đòi hỏi phải có “Hợp đồng tương tự”, hay phải có “Cơ sở khoa học đối chiếu với các sản phẩm tương tự của nước ngoài” như ở Việt Nam ta là nút mở để cho những doanh nghiệp tư nhân như SpaceX tham gia vào các dự án lớn của quốc gia và phát triển những công nghệ “không giống ai”.

Chuyện của chúng tôi

Vẫn biết mọi so sánh là khập khiễng, nhưng câu hỏi thì luôn có quyền được đưa ra, bất chấp sự hoài nghi vô lý về kết quả. Và câu hỏi đó là, khi nào thì Việt Nam chúng ta có được công ty lừng lẫy như SpaceX và doanh nhân huyền thoại như Elon Musk?

Để trả lời cho câu hỏi này, tôi xin được bắt đầu bằng câu chuyện của mình.

Đúng 1 năm trước, ngày 1/6, tôi cùng các công sự trong công ty CP Nghiên cứu và Phát triển Đông Giang Việt Nam cùng công ty công nghệ tư nhân IN.Genius của Singapore do Lim Seng đứng đầu, thực hiện chuyến bay đưa người Singapore đầu tiên vào vùng cận vũ trụ - tầng bình lưu tại thị trấn Alice Springs (Australia) bằng “khí cụ bay tầng bình lưu” mà sau đó đã có nhiều người ví von là “phi thuyền không gian made in Vietnam”.

Phạm Gia Vinh và thiết bị bay do anh và các cộng sự nghiên cứu chế tạo. 

Trước đó, vào ngày 13/5/2015, "phi thuyền" đã đưa chuột thành công vào không gian ở độ cao 29,5km trong cuộc thử nghiệm bay tại thành phố Hyderabad (Ấn Độ). Sau gần 2 tiếng đồng hồ bay ở độ cao cận vũ trụ, phi thuyền mang theo 3 con chuột đã trở về trái đất an toàn trong niềm vui bất tận của nhóm nghiên cứu, chế tạo.

Từ trước đến nay, Việt Nam chưa từng có một khí cụ bay dân sự nào có thể đạt đến trần bay 30km. Chiếc "phi thuyền" của nhóm kỹ sư hàng không chúng tôi chế tạo được đánh giá sánh ngang với một số ít quốc gia phát triển sở hữu công nghệ chế tạo khí cụ bay có trần bay trên 30 km như Mỹ, Pháp, Nhật, Tây Ban Nha, Ấn Độ…

Các chuyên gia đầu ngành tại Việt Nam khẳng định, chiếc “phi thuyền không gian” này là cánh cửa mở ra cơ hội to lớn trong nghiên cứu công nghệ vũ trụ.

Ngày 6/4/2015, Bộ trưởng KH&CN khi đó là ông Nguyễn Quân và các chuyên gia hàng đầu của Việt Nam về khoa học hàng không có cuộc gặp gỡ cởi mở với nhóm kỹ sư chế tạo “phi thuyền không gian” chúng tôi.

Sau khi nghe trình bày, Bộ trưởng Nguyễn Quân cho rằng sẽ còn nhiều việc phải làm để đưa sản phẩm này ứng dụng ra thực tế nhưng Bộ Khoa học và Công nghệ sẵn sàng hỗ trợ tối đa để phát triển công trình này. Bộ trưởng Quân gợi ý việc có thể đưa thiết bị của Vinh thử nghiệm để nghiên cứu đường đi, cường độ của các cơn bão khi mùa mưa bão ở Việt Nam.

Phi hành gia Lim Seng sau khi hạ cánh (Nguồn: IN.Genius Singapore)

Tháng 8/2015, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam có ý kiến cho phép bay trình diễn khí cụ bay tầng bình lưu của chúng tôi. Phó Thủ tướng đề nghị Bộ Quốc phòng xem xét, cấp phép bay thử nghiệm trình diễn khí cụ bay tầng bình lưu của Công ty trên theo quy định hiện hành.

vinh.jpg

Thật đau xót là sản phẩm do người Việt tự thiết kế, chế tạo giờ phải mang thương hiệu của Singapore.

Anh Phạm Gia Vinh

Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì, nhiều năm đã trôi qua, dù đã có ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng, các cơ quan chức năng vẫn chưa cấp phép bay thử nghiệm ở Việt Nam cho khí cụ.

Trong khi đó, chúng tôi đã được cấp phép bay thử ở Ấn Độ 1 lần và ở Australia tổng cộng 3 lần. Điều này cho thấy, khí cụ bay của chúng tôi đã đáp ứng được những tiêu chuẩn khắt khe nhất.

Đến cả việc cấp phép bay thử nghiệm ở Việt Nam - sau khi chúng tôi đã bay thử nghiệm nhiều lần ở những nước có nền khoa học tiên tiến nhất thế giới - còn không thực hiện được thì mong muốn sản phẩm khí cụ bay tầng bình lưu của mình được cấp phép nghiên cứu chế tạo ở Việt Nam chỉ mãi là ước mơ xa vời.

Đấy là lý do vì sao chúng tôi phải mang sản phẩm của mình đi hợp tác với công ty công nghệ tư nhân IN.Genius của Singapore. Thật đau xót là sản phẩm do người Việt tự thiết kế, chế tạo giờ phải mang thương hiệu của Singapore.

Mới đây, startup công nghệ Amanotes của CEO Bình Võ đã viết một thông báo “giản dị” trên Fanpage của họ để chúc mừng con số 1 tỷ lượt download.

Hành trình “From zero to 1B download” ít được người dân trong nước biết đến một phần do Bình Võ khởi nghiệp tại Singapore, nơi giúp anh triển khai nhanh nhất các thủ tục để thành lập và phát triển công ty, thay vì chọn Việt Nam.

Khó hơn lên trời

Vậy, Việt Nam có thật sự là vườn ươm cho start up, cho doanh nghiệp như chúng ta vẫn đang quảng bá rầm rộ? Vướng mắc đang nằm ở đâu?

Phải chăng Việt Nam không sản sinh ra được những nhân tài như Bill Gates, Steve Jobs, Zeff Bezos, Elon Musk, Mark ZuckerBerg… ở Mỹ hay những đại tập đoàn như Huawei, Alibaba của Trung Quốc? Tôi nghĩ rằng đất nước luôn sản sinh ra nhân tài, nhưng lại chưa có cơ chế để hỗ trợ nhân tài tạo ra những thành tựu vĩ đại.

Chúng ta đã ở năm cuối của 15 năm thực hiện “Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ đến năm 2020” do Thủ tướng Chính phủ ký tại Quyết định số 137/2006/QĐ-TTg, vậy nhưng chúng ta mới chỉ dừng chân ở làm quen và làm chủ một phần công nghệ vũ trụ mà cụ thể là ứng dụng công nghệ vệ tinh, bước đầu tự thiết kế và sản xuất vệ tinh cỡ nhỏ. Còn với công nghiệp vũ trụ, chúng ta vẫn dừng ở con số 0.

Phạm Gia Vinh kiểm tra hệ thống điều khiển trước khi cất cánh (Nguồn: IN.Genius Singapore)

Hãy nhìn lại các ngành công nghiệp của chúng ta sau gần 50 năm phát triển và xây dựng đất nước. Thực tế chúng ta chưa có được doanh nghiệp khoa học công nghệ, tập đoàn công nghiệp nào tạo được dấu ấn trên trường quốc tế.

Chúng ta có Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ, nhưng chưa thấy bất kỳ sản phẩm nào được người dân biết tới từ cơ quan nghiên cứu khoa học công nghệ đồ sộ này.

Có chăng gần đây là quyết tâm của ông Phạm Nhật Vượng đưa ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam ra tầm thế giới. Mặc dù ước mơ có được chiếc xe thực sự Make in Vietnam còn xa do các ngành công nghiệp phụ trợ của ta còn nghèo nàn.

Còn với ngành hàng không vũ trụ? Ngoài hai dự án chế tạo máy bay TL-1 (1980) và sau này là chiếc HL-1 (1987) đã phải sớm dừng bay do khó khăn về kinh tế trong thời kỳ tái xây dựng đất nước sau chiến tranh, đến nay chúng ta không hoàn thành được dự án nào liên quan tới hàng không.

Những cá nhân tự nghiên cứu chế tạo máy bay đều vướng phải rào cản pháp lý khiến việc thử nghiệm gần như bất khả thi và ý tưởng bị ngạt thở trước khối lượng thủ tục phức tạp và vòng vo khó gỡ.

Đam mê và ý chí người Việt không thua kém bất cứ quốc gia nào, nhưng vì sao có quá nhiều người phải đi ra nước ngoài để được làm và rồi phải thành công ở đất khách quê người?

Phải chăng vì sợ trách nhiệm nên nhiều dự án không có ai dám ký phê duyệt cho thử nghiệm? Phải chăng vì sợ thất bại nên nhiều đề tài khoa học phải “đối chiếu với sản phẩm tương tự của nước ngoài” bằng cách copy lại gần như y nguyên sản phẩm của nước ngoài? Và rồi cái gì chúng ta làm ra cũng chậm, cũng lạc hậu để rồi lại thành “đề tài cất kho”?

Hay do những quy định chồng chéo khiến cho nhiều doanh nghiệp không dám dấn thân vào con đường khai phá những điều mới mẻ? Tôi xin đơn cử như việc nghiên cứu Hàng không vũ trụ.

Đây là ngành nghề đang ký kinh doanh có điều kiện, cần có ý kiến của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Khoa học Công nghệ. Nhưng lại không có văn bản hướng dẫn rõ ràng mà chủ yếu do cán bộ tự hướng dẫn.

Để rồi, doanh nghiệp ôm hồ sơ đến gõ các cửa, mỗi cửa lại có một yêu cầu khác nhau. Cán bộ này hướng dẫn một kiểu, sang cán bộ kia lại hướng dẫn kiểu khác. Để được hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu và sản xuất liên quan tới Hàng không vũ trụ, doanh nghiệp phải nêu rõ sản phẩm và mục đích của dự án.

Video: Toàn cảnh chuyến bay đưa người Singapore đầu tiên vào vùng cận vũ trụ tại thị trấn Alice Springs (Australia) (Nguồn: IN.Genius Singapore)

Nhưng để “xin” được dự án thì lại phải có giấy phép hoạt động nghiên cứu Hàng không vũ trụ. Vậy cái nào phải có trước? Giấy phép hay dự án? Đối với những doanh nghiệp tư nhân dám dấn thân, muốn nghiên cứu phát triển, họ lại phải lách.

Lách bằng cách ra nước ngoài, lách bằng cách nghiên cứu lén lút để rồi khi muốn thử nghiệm, khi muốn công bố lại bị tuýt còi vì không có giấy phép nghiên cứu phát triển ngay từ đầu.

Mà đã là nghiên cứu phát triển công nghệ mới, sản phẩm mới thì khó có thể ngay từ đầu cung cấp được: Hồ sơ kỹ thuật, Tiêu chuẩn kỹ thuật, Phạm vi ứng dụng... của sản phẩm đó.

Đấy mới là bước xin phép để nghiên cứu phát triển, đến khi có sản phẩm, các cá nhân và doanh nghiệp tư nhân lại vướng vào khó khăn trong việc tiếp cận các khách hàng, các dự án chiến lược. Vì với mức độ phức và đặc thù của ngành này, các khách hàng và dự án đều ở cấp Nhà nước.

Vì vậy, việc tiếp cận với yêu cầu nghiên cứu phát triển còn khó hơn lên trời vì còn nhiều viện nghiên cứu, tập đoàn nhà nước được ưu tiên dưới danh nghĩa dự án liên quan tới an ninh - quốc phòng, hay dự án trọng điểm Quốc gia.

Phạm Gia Vinh cùng nhóm kỹ sư kiểm tra kỹ thuật lần cuối. (Nguồn: IN.Genius Singapore)

Với chừng đó “quả trứng - con gà”, liệu có nhà đầu tư nào, kể cả mạo hiểm đến mấy, dám đầu tư cho những Startup, doanh nghiệp tư nhân, nhà khoa học đang muốn có được những sản phẩm công nghệ cao đóng mác “Make in Vietnam”, nhất là trong lĩnh vực “nhạy cảm” như hàng không vũ trụ?

Trong cuộc đua mở rộng chinh phục vũ trụ, nhà nước cần bắt đầu từ việc cởi mở trong cơ chế quản lý, giảm thiểu sự khó khăn, phức tạp trong việc đăng ký doanh nghiệp khoa học công nghệ hàng không vũ trụ.

Đồng thời, nhà nước cần mở rộng phạm vi “vùng xanh” các lĩnh vực được tham gia nghiên cứu phát triển của các nhà nghiên cứu và doanh nghiệp khoa học công nghệ tư nhân.

Nhà nước cần có chiến lược công khai đặt hàng và mở rộng cho các đơn vị tư nhân được nhận đặt hàng từ Chính phủ đối với việc phát triển công nghệ và công nghiệp vũ trụ. Có như vậy mới tránh được việc sử dụng không hiệu quả vốn đầu tư của Nhà nước, tạo dựng niềm tin cho các nhà đầu tư tư nhân để tận dụng tối đa nguồn trí lực, tài lực trong xã hội.

Trong chuyến bay lịch sử vừa rồi của SpaceX, không chỉ có hai phi hành gia ngồi trong khoang lái, mà còn có thêm một vị khách đặc biệt: một chú khủng long nhồi bông trên tàu vũ trụ Crew Dragon.

Lý giải về hành khách thứ ba, hai phi hành gia Doug Hurley và Robert Behnken cho hay, các con của họ đều rất yêu thích khủng long, nên họ đã mang theo một chú khủng long mà các con gửi theo bên mình để mong mang lại may mắn. Và may mắn đã thật sự mỉm cười.

Còn với các nhà khoa học trẻ Việt Nam, điều gì sẽ tạo nên chú khủng long may mắn cho riêng họ?

Video: Khoảnh khắc Mỹ phóng thành công tàu vũ trụ đưa 2 nhà du hành lên trạm ISS

Phạm Gia Vinh

Tin mới