Nhập thông tin
  • Lỗi: Email không hợp lệ

Đóng

Ông Sáu Dân vì Dân

(VTC News) -

Nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc kể lại những kỷ niệm, những bài học của ông với Thủ tướng Võ Văn Kiệt.

Thời kỳ ông Sáu Dân (Thủ tướng Võ Văn Kiệt) là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước, tôi là Vụ phó Vụ Dầu khí, từ 1983 là Vụ phó Vụ Công nghiệp nặng, chuyên phụ trách xây dựng cơ bản, là cán bộ trực tiếp dưới quyền của ông.

Thời kỳ đó có nhiều công trình công nghiệp nặng  đang được xây dựng: Thủy điện Hòa Bình, Trị An, nhiệt điện Phả Lại, công trình Dầu khí ở Vũng Tàu, Apatit Lào Cai…, nên tôi lại càng có nhiều dịp để tiếp cận ông trong công việc.

Có hai câu chuyện làm cho tôi có một ấn tượng sâu sắc về tinh thần vì dân của ông Sáu Dân!

 

Tháng 11/1979, chúng ta khởi công xây dựng Thủy điện Hòa Bình, mục tiêu là tháng 12/1988 phát điện tổ máy 1. Muốn vậy thì tháng 1/1983 phải làm xong việc chặn dòng đợt 1, tháng 1/1986 phải chặn dòng đợt 2. Công tác di dân phải làm gấp rút, tiền vốn hạn chế, công việc thì nhiều và phải làm nhanh để đảm bảo tiến độ.

Năm 1983, khi tôi tiếp nhận vị trí vụ phó phụ trách xây dựng cơ bản của Vụ Công nghiệp nặng thì thấy đang thực hiện hai phương án di dân. Dân ở tập trung thì di dời tập trung, có khu tái định cư.

Dân ở phân tán thì theo phương án di “vén", nghĩa là mức nước dâng cao nhất của hồ Hòa Bình là +120 m thì di “vén” nhà dân đi theo sườn núi, cứ lên cao hơn mức +120 m là được. Hộ dưới thấp “vén” trước, cao hơn “vén” sau, theo tiến độ mức nước dâng để “vén” như hình ảnh “vén quần qua suối” của dân miền núi.

Di dân như vậy thì chỉ dựa vào sức dân, theo tinh thần động viên sức dân thời chiến. Khi một nhà di chuyển thì hàng xóm đến giúp, dỡ mái ra và khiêng nhà lên cao hơn, rồi lợp lại. Di dời như vậy thì nhanh, chi phí di dân tiết kiệm hơn.

Khi xong việc chặn dòng và xây đập, bắt đầu tích nước thì phát hiện các điểm hạn chế của phương án di “vén”. Những người dân di “vén” khi nước ngập cao thì sống trên các đảo nhỏ, bị cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Cuộc sống rất là khốn đốn!

 

Cùng lúc đó, ở phía Nam, tại công trình thủy điện Trị An, công tác di dân được làm rất chu đáo. Chi phí cho một hộ dân cao hơn. Các khu tái định cư được xây dựng khang trang, đảm bảo đời sống bình thường cho người dân phải di dời.

Chúng tôi lên làm việc với Ban Công tác Sông Đà của tỉnh Hà Sơn Bình (gồm tỉnh Hòa Bình và Hà Tây cũ). Mọi người so sánh hai công việc di dân của hai nhà máy thủy điện và kiến nghị áp dụng tiêu chuẩn di dân của Trị An cho Hòa Bình, bỏ hình thức di “vén”. Chúng tôi về báo cáo ông Sáu Dân.

Ông nói: “Các anh cho tạm ứng tiền làm ngay theo đề xuất, thủ tục xây dựng cơ bản sẽ hoàn thiện sau. Chờ xong thủ tục thì còn lâu. Cứ theo định mức cho từng hộ dân như Trị An mà làm. Việc có lợi cho dân thì không ngại.

Dân mình chịu hy sinh trong hai cuộc chiến nhiều rồi, dân khổ lắm, đừng bắt dân chịu khổ thêm nữa. Đây lại là vùng đồng bào dân tộc ít người, đời sống đang rất khốn khổ. Ở Trị An trước đây tôi đã chỉ đạo: Dân đi đến nơi ở mới phải đảm bảo tốt hơn nơi ở cũ cả về điều kiện sống và việc làm!”.

Chính việc lo cho dân khi phải di dời dân để làm các công trình xây dựng lớn với tinh thần: Dân đến nơi ở mới phải tốt hơn nơi ở cũ là bắt đầu từ đó!

 

Tháng 1/1988 chúng tôi đi công tác lên tỉnh Hoàng Liên Sơn (gồm tỉnh Lào Cai, Yên Bái và huyện Than Uyên của Lai Châu bây giờ). Anh Bùi Quang Vinh, lúc đó là Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Kế hoạch tỉnh làm việc cùng chúng tôi tại tỉnh, sau đó cùng đi làm việc với các cơ sở sản xuất và các huyện.

Ngày 23/1/1988 chúng tôi lên làm việc với huyện Văn Yên. Anh Hoàng Xuân Lộc - Chủ tịch huyện - làm việc cùng (sau này anh Lộc là Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái nhiệm kỳ 2005 - 2010).

Khi trình bày về kể hoạch phát triển kinh tế xã hội của huyện và các đề xuất, anh Lộc cho biết trong tổng số 75 nghìn dân Văn Yên lúc đó thì có khoảng 30 nghìn dân là gốc từ Yên Bình di dời sang để giải phóng lòng hồ cho thủy điện Thác Bà.

Thủy điện Thác Bà phát điện từ năm 1971, nhưng đến tận bấy giờ dân gốc lòng hồ Thác Bà vẫn chưa có điện dùng. Huyện đề nghị cho làm đường dây 35 kV kéo điện từ Cổ Phúc lên. Chúng tôi thảo luận và ủng hộ đề nghị của huyện, nhất trí cho làm ngay.

Có anh em cán bộ đi cùng nói: “Kế hoạch vừa giao xong, các anh quyết mạnh thế, lấy tiền đâu, vật tư đâu mà làm? Các “sếp” có đồng ý không?". Hồi đó để làm được đường dây 35 kV, ngoài chỉ tiêu tiền vốn còn phải có chỉ tiêu vật tư, từ máy biến thế, cáp nhôm, trụ điện, sứ cách điện... rất là khó khăn, liên quan nhiều bộ! 

Tôi trả lời: “Về tôi sẽ báo cáo ông Lê Danh (lúc đó anh Lê Danh là Phó chủ nhiệm phụ trách xây dựng cơ bản) và ông Sáu Dân. Chắc chắn các ông ấy ủng hộ!”.

Về Hà Nội, tôi báo cáo anh Lê Danh. Anh Lê Danh kéo tôi lên Hồ Tây (hồi đó ông Sáu ở trên Quảng Bá, Hồ Tây) báo cáo ông Sáu. Ông nói: “Cho làm ngay, làm ngay, bổ sung vào kế hoạch năm 1988. Cứ làm rồi ghi kế hoạch sau. Việc này đáng lẽ phải làm lâu rồi.

Dân hy sinh tất cả, bỏ hết nhà cửa ruộng vườn, chùa chiền, nhà thờ cho chúng ta làm điện. Hàng vạn dân di dời từ Yên Bình lên Văn Yên xa hơn 60, 70 km, đến nơi hoang vu hẻo lánh hơn. Làm xong  điện thì lại không được hưởng. Các nơi khác có điện, người hy sinh tất cả  đề làm điện thì lại chưa có gì. Các anh cho làm ngay! Cuối năm nay phải có điện cho Văn Yên!”.

Cuối năm 1988, đường dây 35 kV từ Cổ Phúc lên Mậu A đóng điện. Dân Văn Yên có điện sau khoảng 25 năm từ bỏ quê hương đã ngập dưới lòng hồ thủy điện Thác Bà.

Dân nói: Ông Sáu Dân mọi việc vì dân!

***

Trong thời gian làm việc dưới quyền Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt chúng tôi dám làm nhiều việc, cả những việc “ tiền trảm, hậu tấu” là vì chúng tôi biết ông Sáu Dân chỉ vì dân! Cứ lấy tiêu chí vì dân mà làm việc trong sáng, vô tư thì luôn được ông chấp thuận, động viên.

Võ Hồng Phúc (Nguyên Bộ trưởng KH&ĐT)

Tin mới