Quận Hoàn Kiếm nằm ở trung tâm Hà Nội với 18 phường, rộng 5,29 km2, dân số gần 156.000 người. Đây là quận có diện tích nhỏ nhất Hà Nội, giáp quận Ba Đình, Hai Bà Trưng, Đống Đa.
Tuy nhiên, tại Điều 3, Nghị quyết số 35 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về các trường hợp không bắt buộc sắp xếp đơn vị hành chính quy định: "Đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc diện sắp xếp nhưng có một trong các yếu tố đặc thù sau đây thì không bắt buộc thực hiện sắp xếp: Có vị trí biệt lập và khó tổ chức giao thông kết nối thuận lợi với các đơn vị hành chính liền kề; Có địa giới đơn vị hành chính đã hình thành ổn định và từ năm 1945 đến nay chưa có thay đổi, điều chỉnh lần nào; Có vị trí trọng yếu về quốc phòng, an ninh hoặc có đặc điểm về truyền thống lịch sử, văn hóa, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán riêng biệt mà nếu sắp xếp với đơn vị hành chính liền kề khác sẽ dẫn đến mất ổn định về quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội”.
Hiện, Hoàn Kiếm là quận trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế của Thủ đô, có 190 di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng. Điển hình là Quần thể di tích Hồ Gươm - đền Ngọc Sơn - đền Bà Kiệu, chùa Quán Sứ, đình Kim Ngân, chùa Báo Ân (chùa Liên Trì), tháp Báo Thiên, đền Vua Lê, cửa Ô Quan Chưởng, Nhà hát Lớn Hà Nội, nhà tù Hỏa Lò, Quảng trường 19/8, Nhà Thờ Lớn, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, tượng đài Lý Thái Tổ, Bưu điện Hà Nội, chợ Đồng Xuân....
Nhà hát lớn Hà Nội (số 1A phố Tràng Tiền, phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm) được người Pháp khởi công xây dựng năm 1901 và hoàn thành năm 1911, dưới sự giám sát kỹ thuật của thanh tra đô thị – kiến trúc sư Harlay – một trong hai tác giả thiết kế. Người phụ trách thi công là ông Travary và Savelon. Những người thiết kế công trình đã tìm tòi tham khảo kiểu kiến trúc cổ Hy Lạp Coranhtơ kết hợp với kiểu lâu đài Tuylory và nhà hát Opera Paris để tạo nên một khối kiến trúc riêng biệt. Nhà hát lớn Hà nội có giá trị rất lớn về mặt lịch sử, kiến trúc và giá trị sử dụng. Nó là bằng chứng lịch sử sự phát triển văn hóa và xã hội của Hà Nội và Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc, là một di tích của một giai đoạn phát triển kiến trúc ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nhà hát lớn Hà Nội và Quảng trường Nhà hát là nơi diễn ra những sự kiện lịch sử trọng đại gắn liền với cuộc Cách mạng Tháng 8 và những năm đầu của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Cầu Long Biên (tên cũ là cầu Paul Doumer) là cây cầu bắc qua sông Hồng kết nối quận Hoàn Kiếm, quận Ba Đình với quận Long Biên của Hà Nội. Cầu được xây dựng từ năm 1898 tới năm 1902 bởi công ty Daydé & Pillé, được sử dụng vào năm 1903. Cầu dài 2290m qua sông và 896m cầu dẫn, gồm 19 nhịp dầm thép đặt trên 20 trụ cao hơn 40m (kể cả móng) và đường dẫn xây bằng đá. Cầu dành cho đường sắt đơn chạy ở giữa. Hai bên là đường dành cho xe cơ giới và đường đi bộ. Đường cho các loại xe là 2,6m và luồng đi bộ là 0,4m.
Cầu Long Biên là chứng nhân lịch sử của Hà Nội, tượng trưng cho sự hiên ngang, dũng cảm của Thủ đô trong thời kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Cầu từng bị nghiêng vì những dòng chiến xa của thực dân Pháp điều quân từ trong thành phố sang sân bay Gia Lâm tăng cường cho chiến trường Điện Biên Phủ. Năm 1954, cầu Long Biên chứng kiến đoàn quân viễn chinh Pháp rút khỏi Hà Nội; đồng thời đón bộ đội ta tiến vào tiếp quản Thủ đô. Trong chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân của Mỹ, cầu Long Biên là cây cầu duy nhất trong hành trình chở hàng hóa bằng đường bộ, đường sắt từ cảng Hải Phòng, từ biên giới phía Bắc về Hà Nội và tỏa ra các nẻo đường lớn, nhỏ chi viện cho chiến trường miền Nam. Vì thế, từ năm 1965 – 1972, máy bay Mỹ đã 14 lần ném bom hòng phá hủy cây cầu. Bộ đội công binh, phòng không Việt Nam và dân quân tự vệ Hà Nội đã xây dựng nhiều trận địa pháo phòng không, ngày đêm túc trực chờ máy bay Mỹ bổ nhào là nhả đạn, sẵn sàng hy sinh cả tính mạng và trận địa để bảo vệ cây cầu.
Cầu Thê Húc nối từ Hồ Hoàn Kiếm ra hòn đảo nhỏ nơi có đền Ngọc Sơn. Cây cầu này được Thần Siêu Nguyễn Văn Siêu xây dựng vào năm 1865. Tên của cầu có nghĩa là "nơi đậu ánh sáng Mặt Trời buổi sáng sớm" hay "Ngưng tụ hào quang". Cầu làm bằng gỗ, gồm 15 nhịp, có 32 chân cột gỗ tròn xếp thành 16 đôi, mặt cầu lát ván, thành sơn màu đỏ sẫm, chữ Thê Húc được thếp vàng. Cầu đã trải qua hai lần tái thiết kể từ khi hoàn tất. Lần thứ nhất là vào năm 1897 triều Thành Thái. Lần thứ hai là vào năm 1952 sau khi một nhịp cầu gãy vào đêm Giao thừa năm Nhâm Thìn 1952 vì khách đi lễ đền Ngọc Sơn quá đông.
Đền Ngọc Sơn nằm trên đảo Ngọc của hồ Hoàn Kiếm, được xây dựng từ thế kỷ 19. Lúc đầu được gọi là chùa Ngọc Sơn sau đổi gọi là đền Ngọc Sơn vì trong đền chỉ thờ thần Văn Xương Đế Quân là ngôi sao chủ việc văn chương khoa cử và thờ Trần Hưng Đạo, vị anh hùng có công phá quân Nguyên thế kỷ 13. Khởi nguyên, khi vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long đặt tên ngôi đền đã có tại đây là Ngọc Tượng, đến đời nhà Trần đổi tên là Ngọc Sơn. Thời Trần, ngôi đền để thờ những người anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong kháng chiến chống Nguyên - Mông. Hiện, đền Ngọc Sơn là một di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4.
Bưu điện Hà Nội nằm đối diện với hồ Hoàn Kiếm, gồm ba tòa nhà bưu điện tọa lạc tại các phố Đinh Tiên Hoàng, Lê Thạch và Đinh Lễ, được xây dựng theo phong cách kiến trúc tân cổ điển và Art Deco. Tòa nhà đầu tiên nằm trong bốn vị trí ở bốn cạnh của Vườn hoa Chí Linh và giáp với phố Lê Thạch, từng trải qua nhiều đợt cải tạo mở rộng so với thiết kế ban đầu. Tòa nhà thứ hai (tòa bưu điện trung tâm) hoàn thành vào năm 1901 trên nền một phần của chùa Báo Ân đã bị phá và do Henri Vildieu thiết kế. Về sau, một tòa nhà mới giáp với phố Đinh Lễ ngày nay đã được xây tiếp, tạo nên dãy công trình nằm dọc trên phố Đinh Tiên Hoàng, với mặt chính hướng ra phía hồ Gươm. Sau này, trong thập niên 1970, công trình cũ của tòa bưu điện trung tâm bị phá dỡ và xây lại thành một tòa nhà cao năm tầng có cột đồng hồ lắp trên đỉnh. Chiếc đồng hồ cùng với biển chữ của công trình đến nay đã trở thành một trong những biểu tượng văn hóa của Hà Nội.
Tượng đài vua Lý Thái Tổ được khởi công xây dựng và khánh thành năm 2004. Đây là bức tượng bằng đồng nguyên chất, đúc liền khối, nặng 34 tấn (tượng 14 tấn, bệ 20 tấn), cao 10,10m (tượng cao 6,8m, bệ cao 3,3m), tính theo đơn vị centimet, 1010cm tương ứng với số năm 1010 - năm vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay), đổi tên thành Thăng Long. Tượng được đặt trên đài hình bát giác (tượng trưng cho tám hướng), phần trên đài cách điệu bốn cổng thành Hà Nội, phần bệ giật cấp ba bậc thềm tượng trưng cho thiên thời - địa lợi – nhân hoà, những yếu tố làm cơ sở để vua Lý Thái Tổ đặt niên hiệu Thuận Thiên. Từ lâu, Tượng đài vua Lý Thái Tổ là nơi diễn ra nhiều sự kiện, hoạt động văn hóa nghệ thuật trong các dịp lễ kỷ niệm quan trọng của đất nước.
Tượng đài vua Lê Thái Tổ là công trình văn hoá - tưởng niệm để ghi nhớ công lao của vua Lê Thái Tổ (tức vị anh hùng Lê Lợi, 1385 - 1433), người đã lãnh đạo cuộc kháng chiến đánh đuổi giặc ngoại xâm, giải phóng đất nước vào thế kỷ thứ XV. Tượng đài vua Lê Thái Tổ được dựng vào khoảng năm 1896, gắn liền với truyền thuyết "trả gươm thần" trên hồ Hoàn Kiếm.
Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục thuộc phường Lê Thái Tổ, thuộc phía Đông Bắc quận Hoàn Kiếm. Nơi đây là điểm giao thoa của 5 con phố nổi tiếng bao gồm phố Lê Thái Tổ, phố Đinh Tiên Hoàng, phố Hàng Đào, phố Hàng Gai và phố Cầu Gỗ. Vào thời Pháp thuộc, nơi này có tên là Quảng trường tướng Négrier (Place Négrier). Trước đây, khu vực quảng trường vốn là một bãi đất trồng dừa được người Pháp trưng dụng để làm quảng trường trung tâm và cũng là nơi hành quyết các sĩ phu yêu nước. Đến năm 1907, các sĩ phu yêu nước đã xây dựng ngôi trường mang tên Đông Kinh Nghĩa Thục trên mảnh đất này để dạy chữ Quốc ngữ cho học trò. Ngôi trường cũng chính là địa bàn hoạt động của các thành phần sĩ phu yêu nước trên khắp Hà Nội và tỉnh lân cận. Đến năm 1945, thị trưởng Trần Văn Lạt cho đổi tên Quảng trường Tướng Négrier thành quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Hiện nay, khu vực quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục đã trở thành một phần của phố đi bộ Hồ Gươm, là nơi thường xuyên diễn ra các sự kiện văn hóa, nghệ thuật lớn của thành phố, thu hút sự tham gia của đông đảo người dân Hà Nội và du khách.
Hoàn Kiếm là quận trong diện sáp nhập, dân Thủ đô nghĩ thế nào?