1
2
3
Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Từ ngày 13 đến 17/3/1954, quân ta tiêu diệt gọn cụm cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; diệt và bắt sống trên 2.000 tên địch, phá hủy 25 máy bay, xóa sổ 1 trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh. Đại tá Pirốt, Tư lệnh pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ, bất lực trước pháo binh của ta đã dùng lựu đạn tự sát.
Giai đoạn 2: Từ ngày 30/3 đến ngày 30/4/1954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía Đông phân khu trung tâm thắt chặt vòng vây, chia cắt và liên tục tiến công, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho tập đoàn cứ điểm. Địch rất ngoan cố, muốn kéo dài thời gian. Tướng Nava hy vọng đến mùa mưa ta phải cởi vòng vây. Đây là đợt tấn công dai dẳng, dài ngày nhất, quyết liệt nhất, gay go nhất, ta và địch giành giật nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt, tại đồi C1, ta và địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1 giằng co tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2, khu trung tâm Điện Biên Phủ nằm trong tầm bắn các loại súng của ta, quân địch rơi vào tình trạng bị động, mất tinh thần cao độ.
Giai đoạn 3: Từ ngày 1/5 đến ngày 7/5/1954, quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đêm 6/5/1954, tại đồi A1 trận chiến đấu giữa ta và địch diễn ra quyết liệt, quân ta ào ạt xông lên tiêu diệt các lô cốt và dùng thuốc nổ phá các hầm ngầm. Tên chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên địch còn sống sót đã phải xin đầu hàng. 17h30 ngày 7/5/1954, ta chiếm sở chỉ huy của địch, tướng De Castries cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Ngay trong đêm đó, quân ta tiếp tục tiến công phân khu Nam, đánh địch tháo chạy về Thượng Lào, đến 24 giờ toàn bộ quân địch đã bị bắt làm tù binh.
4
Đánh nhanh, thắng nhanh
Đánh chắc, tiến nhanh
Đánh nhanh, tiến chắc
Đánh chắc, tiến chắc
Ngày 25/1/1954, các đơn vị bộ đội ta đã ở vị trí tập kết sẵn sàng nổ súng theo phương châm tác chiến “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Nhưng nhận thấy địch tăng cường lực lượng phòng ngự vững chắc, Bộ Chỉ huy và Đảng ủy chiến dịch đưa ra quyết định: giữ vững quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thay đổi phương châm tác chiến sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Với địa hình hiểm trở, pháo của ta kéo vào tập trung tại trận địa, nay lại phải kéo pháo phân tán ra các trận địa mới trên các điểm cao tạo thành vòng cung bao vây tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, để bắn trực tiếp vào các mục tiêu dưới lòng chảo. Với tinh thần quả cảm, không quản ngại gian khổ, hy sinh, quân và dân ta vượt qua thử thách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Tạ Quốc Luật
Tạ Quốc Luật sinh năm 1925, quê Thái Bình. Ông tham gia phong trào thanh niên phản đế tại địa phương và gia nhập cứu quốc quân từ khi Cách mạng tháng Tám thành công.
Năm 1947, ông là trung đội trưởng của Tiểu đoàn 151, tham gia nhiều trận đánh ở các tỉnh Bắc Cạn, Yên Bái, Lào Cai, Cao Bằng và Lạng Sơn.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Tạ Quốc Luật chỉ huy đại đội lập nhiều chiến công xuất sắc, trong đó có chiến công bắt sống tướng De Castries (Đờ Cát-xtơ-ri) cùng Bộ Tham mưu của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ chiều 7/5/1954.
Trong hồi ký về những tháng ngày lịch sử, Tạ Quốc Luật viết: “Khi chúng tôi vượt qua cầu Mường Thanh thì gặp một tên lính ngụy. Tôi hỏi tên này: Hầm De Castries ở đâu? Hắn chưa hết run và chỉ vào căn hầm có nhiều cột ăng-ten nhỏ ở trên nóc. Tôi liền chỉ huy tổ của mình áp sát khu vực hầm và phân công đồng chí Nhỏ dùng thủ pháo ném vào cửa hầm uy hiếp.
Số sĩ quan Bộ Tham mưu của tập đoàn cứ điểm tỏ ra rất mệt mỏi và lo âu. Riêng De Castries vẫn đội mũ ca-lô và ngồi cúi mặt xuống bàn. Khi đến gần, tôi hô lớn tiếng Pháp: “Giơ tay lên!”. Sau đó, De Castries cầm máy điện thoại ra lệnh cho toàn bộ quân Pháp ở Điện Biên Phủ đầu hàng. Lúc đó là 17h30 ngày 7/5/1954”.
Trong cuốn hồi ký Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng xác nhận, Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật đã bắt được tướng De Castries.
Hoàng Trần Bích
Lê Mã Lương
Trần Can
Trần Trọng Trung
Hoàng Cầm
Hoàng Đăng Vinh
Trần Quân Lập
Cuốn sách Một vài hồi ức về Điện Biên Phủ, Thượng tướng Hoàng Cầm khi đó là Trung đoàn trưởng trung đoàn 209, đại đoàn 312, đã kể lại câu chuyện buổi chiều 7/5/1954 lịch sử, với sự kiện tổ của đại đội 360 của Tạ Quốc Luật và Hoàng Quang Vinh vượt cầu Mường Thanh, tiến vào hầm chỉ huy bắt sống tướng De Castries và những lời hỏi cung đầu tiên với viên tướng Pháp này: “Điện của đại đoàn, của Bộ chỉ huy mặt trận dồn dập yêu cầu báo cáo về việc bắt sống De Castries và việc quân nó ra hàng. Tôi lệnh cho đại đội trưởng Tạ Quốc Luật giải ngay De Castries về chỉ huy sở của trung đoàn.
Đồng chí Trần Quân Lập, Chính ủy trung đoàn hỏi nó bằng tiếng Pháp:
- Đơn vị của anh ở Hồng Cúm hàng chưa?
- Tôi bị đứt liên lạc với Hồng Cúm.
- Tôi đã báo cáo cho tướng Cogni là Điện Biên thất thủ rồi, tuyệt vọng hoàn toàn.
- Trước kia anh có viết truyền đơn thách chúng tôi phải không?
- Mong ông hiểu cho, Hà Nội làm việc đó chứ không phải tôi.
Tử hình
Trả về nước
Christian de Castries (SN 1902) xuất thân gia đình danh giá ở Pháp, theo binh nghiệp. Năm 1953, Castries được giao nhiệm vụ phòng thủ ở Điện Biên Phủ, với chức vụ chỉ huy trưởng tập đoàn cứ điểm.
Ngày 7/5/1954, Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh bại quân Pháp và đồng minh tại tập đoàn cứ điểm, kết thúc Chiến tranh Đông Dương. De Castries bị bắt giam trong 4 tháng.
Ngày 3/9/1954, De Castries được trao trả về nước theo hiệp định giữa Việt Nam và Pháp.
Năm 1984, De Castries muốn quay lại Việt Nam - nơi gắn bó một thời binh nghiệp, nhưng không thành.
Năm 1991, De Castries qua đời tại Pháp.
Tiếp tục làm tướng
Nghỉ hưu
Hiệp định Genève
Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là trận quyết chiến chiến lược, là trận đánh lừng lẫy năm châu “chấn động địa cầu”, trực tiếp đưa đến việc ký Hiệp định Genève (ngày 8/5/1954) về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương; tạo cơ sở và điều kiện để nhân dân ta tiếp tục giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến bảo vệ và xây dựng Tổ quốc sau này.
Sau hội nghị Genève, Pháp công nhận quyền tự do, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương, trong đó có Việt Nam, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương.
Hiệp ước Quý Mùi (hiệp ước Harmand)
Hiệp định Paris
Hiệp ước Hoà Bình