Nhập thông tin
  • Lỗi: Email không hợp lệ

Đóng

5 vũ khí giúp Nga giành lợi thế áp đảo trong cuộc cạnh tranh ở Bắc Cực

Các hệ thống từ thời Chiến tranh Lạnh của Liên Xô đã giúp Nga chuẩn bị tốt cho cuộc cạnh tranh ở Bắc Cực.

Trong thập kỷ trước, các quốc gia tiếp giáp Bắc Cực đã tự nhận thấy vấn đề an ninh lớn. Băng tan ở vùng cực mở ra các tuyến vận tải biển cùng cơ hội khai thác các nguồn tài nguyên trong khu vực nhưng cũng để lộ ra những nguy cơ đối với các nước vốn lâu nay coi đường biên giới phía Bắc là an toàn.

Không có gì ngạc nhiên khi Nga đã chuẩn bị cho lực lượng quân đội các chiến dịch Bắc Cực tốt hơn bất cứ nước nào khác. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Liên Xô đã chuẩn bị để có thể chiến đấu ở khắp khu vực Bắc Cực, cả trên không và trên biển. Nhiều vũ khí và những hiểu biết chuyên môn từ thời đó vẫn được duy trì tới nay đã giúp Điện Kremlin có ưu thế vượt trội mà những nước khác khó bắt kịp.

Cho tới nay Nga vẫn là nước có đội tàu phá băng lớn nhất thế giới. (Ảnh: TASS)

Dưới đây là 5 hệ thống vũ khí Nga có thể sử dụng để bảo vệ các lợi ích ở Bắc Cực trong trường hợp xảy ra chiến tranh.

Tàu phá băng

Tàu độc lập quan trọng nhất để tiếp cận vùng Bắc Cực là tàu phá băng và Nga cho tới nay vẫn là nước có đội tàu phá băng lớn nhất thế giới.

Hiện tượng ấm lên không loại bỏ hoàn toàn các vùng biển đóng băng quanh năm, mà thay vào đó, khiến băng dễ thay đổi và khó dự đoán hơn. Khi Bắc Cực trở nên dễ tiếp cận hơn, các lợi ích thương mại ở khu vực này gia tăng; tần suất sử dụng dân sự và quân sự cũng ngày càng tăng, khiến cho các tàu phá băng càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.

Cả tàu dân sự và tàu quân sự đều cần sự hỗ trợ của các tàu phá băng để thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên. Trong lĩnh vực này, Nga vẫn là nước được trang bị tốt nhất để đóng vai trò là người bảo đảm cho việc tiếp cận Bắc Cực trên toàn cầu.

Hiện Nga đang gấp rút đóng thêm 4 tàu phá băng chạy bằng năng lượng hạt nhân - những con tàu có đủ sức mạnh và tầm hoạt động để hỗ trợ các cuộc thám hiểm quân sự trên khắp Bắc Cực. Đến 2035, nước này sẽ sở hữu ít nhất 9 tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân. Ngoài ra, Nga còn có nhiều loại tàu phá băng chạy bằng năng lượng thông thường.

Trong khi đó, Mỹ chỉ có 2 tàu phá băng thuộc Lực lượng Bảo vệ Bờ biển nước này, cùng một số tàu của Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Canada.

Các tàu phá băng đảm bảo cho quân đội Nga khả năng tiếp cận Bắc Cực một cách chắc chắn mà không quốc gia nào khác có thể thực hiện được. Điều này đem lại cho Nga tự do lớn trong việc hoạch định chiến lược tiếp cận tài nguyên và quân sự ở vùng cực.

Tàu ngầm Akula

Vũ khí thứ hai mang lại cho Nga lợi thế ở Bắc Cực là tàu ngầm hạt nhân Akula. Các tàu ngầm Nga có nhiều kinh nghiệm hoạt động ở Bắc Cực và có một cấu trúc hỗ trợ rộng rãi với các căn cứ cũ của Liên Xô dọc theo vành đai Bắc Băng Dương.

Một trong các tàu ngầm lớp Akula của Nga ở biển Barents năm 2001. (Ảnh: AP)

Trong khi những “gã khổng lồ” mới liên liên tiếp ra mắt, Akula - quái vật biển từ thời Liên Xô vẫn có những ưu thế riêng, có thể mang theo một kho vũ khí khổng lồ. Mặc dù được chế tạo từ những năm 1980, tàu Akula vẫn có thể hoạt động hiệu quả trong vai trò chống tàu ngầm (dưới mặt băng hoặc dưới các vùng biển khơi) và các nhiệm vụ chống tàu nổi (khi việc giảm băng trên bề mặt có thể làm cho tên lửa hành trình hoạt động hiệu quả hơn).

Dù Akula không hoạt động hoàn toàn yên tĩnh như các tàu ngầm của phương Tây, nhưng bù lại, “gã khổng lồ” này có ưu thế về kích thước và tải trọng vũ khí. Hạm đội Phương Bắc của Nga, thường được giao nhiệm vụ hoạt động ở Bắc Cực, hiện đang duy trì 6 tàu ngầm Akula, thường xuyên hoạt động dưới mặt băng.

Máy bay MiG-31

Ngay cả khi băng đã được dọn, các điều kiện ở Bắc Cực vẫn gây khó khăn cho việc tiến hành các hoạt động của tàu sân bay, điều này làm tăng tầm quan trọng của các máy bay trên đất liền. Hoạt động từ các căn cứ dọc theo vành đai Bắc Cực, MiG-31 Foxhound - một máy bay đánh chặn tốc độ cao được phát triển trên nền tảng MiG-25 Foxbat, có thể bao phủ rất nhiều không gian.

“Sát thủ đánh chặn” MiG-31 khai hỏa. (Ảnh: Defence Bangla)

MiG-31 và phiên bản tiền nhiệm của nó được thiết kế để săn tìm và tiêu diệt các máy bay ném bom Mỹ khi đối phương tìm cách xuyên thủng hệ thống phòng không của Liên Xô. Mặc dù MiG-25 Foxbat chỉ hoạt động tốt khi thực hiện vai trò không đối không, nhưng phiên bản MiG-31 Foxhound có radar tốt hơn và khả năng cơ động vượt trội, khiến nó trở thành nền tảng chiếm ưu thế trên không hiệu quả hơn.

Foxhound có thể sẽ phải “chật vật” trong cuộc đối đầu với các máy bay chiến đấu thế hệ 4,5 và thế hệ 5 tiên tiến nhất mà Mỹ sở hữu, nhưng do thiếu căn cứ, các máy bay của Mỹ sẽ khó có thể xuất hiện ở đó để chiến đấu.

Foxhound có thể đạt tốc độ Mach 2,83 ở độ cao lớn, bán kính chiến đấu khoảng 1.600km. Hiện Nga đang vận hành khoảng 200 chiếc MiG-31 cả của Hải quân và Không quân, đồng thời Moscow đang thực hiện các bước để phục hồi và cải thiện cơ sở hạ tầng nhằm hỗ trợ các căn cứ không quân ở Bắc Cực.

Tu-95/Tu-142

Tu-95 Bear là một trong những máy bay chiến đấu lâu đời nhất vẫn còn hoạt động trong lực lượng Không quân chiến lược Nga. Giống như B-52 của Mỹ, Tu-95 Bear hiện nay hoạt động trong một môi trường chiến lược khác xa với những gì các kỹ sư dự định vào những năm 1950.

Tu-95 Bear. (Ảnh: Wikimedia)

Tuy nhiên, cũng giống như B-52, Tu-95 đã chứng minh được khung máy bay rất linh hoạt, và các biến thể của máy bay này từ lâu đã hoạt động trong lực lượng tuần tra hàng hải. Tu-95 (và phiên bản dành cho hải quân Tu-142) có khả năng hoạt động hiệu quả trong điều kiện khắc nghiệt của Bắc Cực, nơi các căn cứ trên bộ ở rất xa và các hoạt động của tàu sân bay thường không thực tế.

Ở phiên bản Tu-95 cổ điển, Bear có thể mang tên lửa hành trình chống hạm và đất đối. Biến thể tuần tra hàng hải, Tu-142, có thể tiến hành các hoạt động chống tàu ngầm. Với bán kính chiến đấu lên tới 5.000km, Bear có thể hoạt động tốt ngoài tầm với của các máy bay chiến đấu trên bộ và trên tàu sân bay. Đây có thể xem như một “điều may mắn”, vì Bear không thể chạy khỏi các máy bay đánh chặn của đối phương.

Cũng như B-52, Nga hy vọng Tu-95 Bear sẽ tiếp tục phục vụ trong vài thập kỷ nữa và là một lựa chọn hiệu quả cho các hoạt động kiểm soát trên biển.

Các lực lượng đặc biệt

Bắc Băng Dương không có các vùng đất lớn và các trung tâm dân cư đáng kể. Khí hậu khắc nghiệt ở Bắc Cực khiến ngay cả những hòn đảo lớn nhất cũng hầu như không thể sinh sống. Trong điều kiện như vậy, quân đội Nga ít khi sử dụng các đội hình bộ binh hoặc thiết giáp lớn. Thay vào đó, các đội hình có tính di động và khả năng sát thương cao sẽ hiệu quả hơn.

Các lực lượng đặc biệt của Nga từ lâu đã chuẩn bị cho cuộc chiến ở Bắc Cực. Trong Chiến tranh Lạnh, các đội Spetsnaz đã được huấn luyện để tấn công các cơ sở của NATO ở Na Uy, Faroes, Iceland và các nơi khác.

Các lực lượng đặc biệt cũng có thể hỗ trợ các nhiệm vụ tìm kiếm và cứu hộ của lực lượng dân sự ở các khu vực không thể tiếp cận. (Ảnh: KT)

Trong những năm gần đây, Nga đã tăng cường đào tạo các lực lượng đặc nhiệm dự kiến ​​triển khai ở Bắc Cực. Các tàu ngầm, máy bay và tàu nổi có thể đảm nhiệm việc chuyên chở đội hình này - lực lượng có thể chiếm và giữ các khu vực không thể tiếp cận, tiến hành trinh sát và làm gián đoạn thông tin liên lạc của đối phương.

Các lực lượng đặc biệt cũng có thể hỗ trợ các nhiệm vụ tìm kiếm và cứu hộ của lực lượng dân sự ở các khu vực không thể tiếp cận.

Các hệ thống kế thừa từ thời Chiến tranh Lạnh đã giúp Nga chuẩn bị tốt cho cuộc cạnh tranh ở Bắc Cực. Thách thức của Nga là duy trì các hệ thống này hoạt động (cả Tu-95 Bear và MiG-31 Foxhound cũng như nhiều tàu phá băng đã trở nên cũ kỹ) và phát triển các phương tiện thay thế hiệu quả. Dù vậy, nếu biến đổi khí hậu vẫn diễn ra theo các mô hình dự đoán, trách nhiệm và cả cơ hội của quân đội Nga ở Bắc Cực sẽ ngày càng gia tăng./.

Hoàng Phạm (VOV.VN)

Tin mới