Ba kích từ lâu được biết đến là dược liệu bổ. Người dân thường truyền tai nhau rằng ba kích bổ thận tráng dương nên các đấng mày râu rất thích sử dụng vị thuốc này và hay ngâm rượu uống. Vậy, ba kích có tác dụng gì và những người không nên dùng ba kích. Hãy cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây.
Tác dụng của ba kích
Theo sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của cố giáo sư Đỗ Tất Lợi, trong rễ ba kích có chất anthraglucozit, rất ít tinh dầu, chất đường, nhựa và axit hữu cơ. Rễ tươi có vitamin C. Theo tài liệu cổ ba kích có vị cay ngọt, tính hơi ôn. Chúng có tác dụng ôn thận trợ dương, mạnh gân cốt, khử phong thấp…
Trong dân gian, ba kích là vị thuốc bổ trí não và tinh khí, dùng trong các bệnh liệt dương, xuất tinh sớm, di mộng tinh, phụ nữ kinh nguyệt không đều, còn dùng chữa bệnh phong thấp, mạnh gân cốt… Ngày dùng 4-10g dưới dạng thuốc sắc hay cao lỏng. Ngoài ra còn dùng ba kích nấu với thịt gà, ăn để bồi bổ sức khỏe.
Theo kinh nghiệm của người dân, ba kích rễ to, mập, cùi dày, màu tía là loại tốt. Rễ sau khi đào lên rửa sạch đất, loại bỏ rễ con, phơi gần khô dùng chày gỗ đập nhẹ cho bẹp phần thịt (tránh giập nát) để lộ lõi nhỏ bên trong. Rút bỏ lõi, rồi phơi hoặc sấy tiếp cho thật khô sau đó cắt thành từng đoạn ngắn.
Ba kích ngâm cùng rượu gạo hoặc rượu nếp, chừng hơn 30 ngày là có thể uống được, để càng lâu rượu càng đặc, càng ngọt. Nét đặc thù của rượu ba kích là khi ngâm lâu, rượu chuyển sang màu xanh tím, uống có mùi thơm ngậy. Trong đông y ba kích thường được phối hợp với các vị thuốc khác để ngâm rượu hoặc sắc uống tuỳ bệnh mà thầy thuốc sẽ bắt mạch và kê đơn cho phù hợp.
Những người không nên dùng ba kích
Ba kích tuy có nhiều lợi ích với sức khỏe tuy nhiên những nhóm người dưới đây được khuyến cáo không nên dùng ba kích: