Những ngày cuối năm, khi gió từ sông Sài Gòn thổi vào mang theo chút lạnh rất nhẹ của miền Đông Nam Bộ, chúng tôi tìm về làng gốm Lái Thiêu (phường Lái Thiêu, TP.HCM), vùng đất hơn trăm năm nổi danh với những lò gốm đỏ lửa và những con người bền bỉ giữ nghề bằng đôi tay thấm mùi đất.
Xe du lịch từ TP.HCM, Đồng Nai, Tây Ninh đổ về từng đoàn. Những bước chân người lớn vô thức chậm lại khi nhìn thấy những chiếc lu, cái chậu, bình hoa mang dáng vẻ hoài niệm. Đám trẻ nhỏ thì reo lên thích thú khi lần đầu tiên tận mắt thấy đất được xoay tròn, nắn thành hình ngay trước mắt. Tất cả làm nên một Lái Thiêu sống động, ấm áp, đậm chất văn hoá.
Nơi lửa nghề đỏ suốt trăm năm
Con đường nhỏ dẫn vào cụm lò gốm truyền thống nằm ven sông Sài Gòn khiến chúng tôi như bước vào một thế giới khác. Nơi thời gian chậm lại, nơi hơi đất, hơi lửa và hơi người hòa làm một.
Gốm Lái Thiêu - Di sản Văn hóa Phi vật thể Quốc gia.
Lò của nghệ nhân Sáu Dũ (50 tuổi), gia đình có hơn nửa thế kỷ gắn bó với nghề là nơi chúng tôi dừng chân đầu tiên. Bên trong, ánh lửa từ miệng lò hắt ra cam rực, phản chiếu lên gương mặt những người thợ đang thoăn thoắt xếp gốm. Mỗi động tác của họ mang một nhịp riêng, kiên nhẫn, chắc nịch, và đầy tôn trọng đối với chất liệu vô tri đang dần hóa thành hình.
Chú Dũ đứng dựa vào chiếc bàn xoay đã sờn nhẵn theo năm tháng, chậm rãi nói với chúng tôi: “Cuối năm là lúc bận nhất. Khách đông hơn, lò đỏ lửa liên tục. Nghề này giờ bọn trẻ ít làm, vì cực quá. Vui nhất là giờ họ đâu chỉ tới mua gốm… họ tới xem mình làm, rồi xin làm thử luôn. Như vậy nghề mới sống".
Một đôi vợ chồng trẻ từ TP.HCM vừa hoàn thành chiếc ly nhỏ méo xệch, nhưng cả hai đều cười rạng rỡ. Người chồng bảo: “Lần đầu tiên trong đời cầm đất mà thấy… thương cái nghề này. Nhìn tưởng dễ, ai ngờ xoay bàn là đất nó chạy lung tung".
Ở góc khác của xưởng, chú Dẹo (55 tuổi) - hơn 40 năm theo nghề, đang tỉ mỉ khắc từng đường hoa văn lên bình.
Bàn tay nghệ nhân gìn giữ di sản trăm năm.
“Thấy người ta làm rồi mình mê, học theo để kiếm tiền”, chú nói và cho biết công việc đòi hỏi sự tỉ mỉ, nặn đất, đắp chi tiết, phơi nắng, tráng men và nung lò. Thời gian phơi tùy loại sản phẩm và thời tiết, có khi một ngày, có khi ba bốn ngày.
“Máy móc làm nhanh, nhưng không có hồn. Cái nét Lái Thiêu là phải từ tay người mà ra", chú Dẹo nói thêm.
Câu nói ấy, như một lời nhắn nhủ nhẹ mà sâu. Đó là di sản không chỉ nằm trong sản phẩm, mà nằm trong cách người ta làm ra nó.
Cuối năm, khói từ những lò nung hoà vào sương chiều, tạo nên cảnh tượng rất riêng. Dưới ánh nắng ngả vàng, những dãy bình, chậu, tượng phơi chờ vào lò tạo thành hàng dài như một “cánh đồng gốm”. Người thợ già đẩy xe gốm ra sân phơi, người trẻ dọn sản phẩm từ sáng sớm để kịp cho đợt khách ồ ạt buổi trưa.
Những sản phẩm gốm mang nét hoài niệm xưa.
Truyền thống và hiện đại giao thoa ngay trong cách người ta làm việc. Những công đoạn đòi hỏi kỹ thuật thủ công vẫn được giữ gìn, trong khi các khâu gây khói bụi đã dần chuyển sang dùng lò nung thân thiện môi trường. Nước thải từ việc rửa men được gom xử lý thay vì đổ thẳng ra ao hồ như trước.
Những thay đổi ấy không chỉ để giữ nghề, mà còn để giữ không gian sống, giữ sự bền vững cho một điểm đến du lịch trong bản đồ văn hoá TP.HCM.
Chạm vào ‘hơi thở’ của nghề
Nếu như những lò gốm cũ kỹ là phần “cội” của Lái Thiêu, thì Vườn Nhà Gốm - cửa hàng trưng bày và trải nghiệm rộng lớn nhất khu vực chính là phần “ngọn”, là minh chứng cho sự chuyển mình của làng nghề trong thời đại du lịch hoá.
Khách đến tham quan, mua sắm tại Làng gốm Lái Thiêu.
Từ xa, khách đã thấy tòa nhà với mái ngói đỏ và bảng hiệu lớn nổi bật. Bước vào bên trong là một không gian khiến chúng tôi không khỏi bất ngờ. Tất cả được sắp đặt chỉn chu như một bảo tàng thu nhỏ: Khu trưng bày sản phẩm thủ công cao cấp; khu triển lãm chủ đề theo mùa; sân sau là khu trải nghiệm làm gốm, rộng, thoáng, đông nghịt khách.
Những ngày cuối năm, Vườn Nhà Gốm gần như “kín chỗ”. Từng đoàn khách xếp hàng dài để thử làm gốm. Một nhóm học sinh tiểu học đang chụp hình với những chiếc chum khổng lồ. Cạnh đó, nhóm du khách nước ngoài mải mê chọn các sản phẩm men xanh ngọc: ly, bình trà, bộ gia vị… Mọi người đều có chung một cảm giác: vừa gần gũi, vừa lạ lẫm.
Cô Yến, người có hơn nửa thế kỷ gắn bó với nghề đang tỉ mỉ vẽ ông già Noel và tuần lộc lên những chiếc cốc Giáng sinh. Cô kể ngày trẻ, cô theo mẹ phụ làm gốm, tay lúc nào cũng dính đất. Giờ tóc đã điểm muối tiêu, đường khắc trên bình vẫn mềm mại như xưa.
Nghệ nhân chăm chút, tỉ mỉ cho từng công đoạn.
Mỗi hoa văn cô khắc là một câu chuyện. Về dòng sông, về ngọn gió, về ngày mà cả làng tranh nhau vào lò phơi gốm vì “cháy hàng”.
Người trẻ bây giờ ít làm nghề, nhưng mỗi khi thấy du khách đổ về tham quan, cô lại nhen lên hy vọng: “Thấy người ta thích gốm mình làm, vậy là còn hy vọng nghề sống thêm mấy chục năm nữa".
Ở góc bên kia, nghệ nhân Dương Minh Tâm, người có hơn 20 năm trong nghề gốm đang thoăn thoắt hướng dẫn khách tự tạo ra sản phẩm gốm cho mình.
Anh cho biết, các sản phẩm ở đây là gốm Nam bộ. Gốm Nam bộ luôn làm cho mọi người thích thú bởi sự đa dạng về loại hình, công dụng cũng như về kiểu dáng và màu men, phong phú về đề tài thể hiện.
Du khách thích thú khi được tự tay tạo ra sản phẩm gốm cho riêng mình.
“Khách bây giờ không chỉ thích sản phẩm đẹp, mà muốn hiểu câu chuyện phía sau. Bọn mình thiết kế cả tour: dẫn khách vào lò, kể về lịch sử Lái Thiêu, rồi mới quay lại đây trải nghiệm. Ai làm xong sản phẩm thì được ghi tên, hong khô, đóng gói", nghệ nhân Dương Minh Tâm nói.
Những chi tiết nhỏ ấy khiến du khách lưu lại lâu hơn, và cũng khiến họ cảm thấy mình như một phần của làng nghề.
Nhiều thợ trẻ bước vào nghề với tâm thế khác. Họ học bài bản hơn, biết thiết kế hơn, am hiểu thị trường hơn. Với những nghệ nhân trẻ, làm gốm bây giờ không chỉ là làm cái bình, cái chén, mà phải sáng tạo. Bởi khách thích sự độc bản, thích chất thủ công.
Cô Yến "thổi hồn" vào sản phẩm.
Cuối năm là mùa đẹp nhất của du lịch làng gốm. Không chỉ mua sắm, du khách đến đây còn có thể thử xoay bàn gốm, tự tay tạo nên sản phẩm của mình. Khách có thể đi vào tận lò nung, cảm nhận hơi nóng đặc trưng của nghề. Tham gia workshop decor gốm, vẽ hoa văn lên sản phẩm đã nung...
Nhìn những bước chuyển ấy, chúng tôi hiểu rằng Lái Thiêu không sống nhờ hoài niệm, mà sống nhờ sự hoà hợp giữa ký ức và sức sống mới.
Chiều muộn, hoàng hôn rải lên mái ngói cũ của những lò gốm màu vàng ấm. Chúng tôi rời Lái Thiêu khi người thợ cuối cùng trong ngày vẫn đang tỉ mẩn đặt mẻ gốm mới vào lò. Sóng sông Sài Gòn vỗ nhẹ dưới bờ, mang theo mùi đất nung thoang thoảng.
Có lẽ điều khiến Lái Thiêu níu chân không chỉ là những chiếc bình men xanh ngọc đẹp đến nao lòng, mà là cảm giác về một thứ gì đó rất người: Sự bền bỉ, sự chăm chút, sự gìn giữ những giá trị đã tồn tại qua bao thế hệ.
Qua trăm năm, di sản vẫn đang được gìn giữ mỗi ngày bằng những bàn tay lấm đất nhưng đầy tự hào.
Và chính du khách, những người đến đây, trải nghiệm, nâng niu sản phẩm thủ công đang tiếp sức cho nghề tiếp tục sống. Ở một vùng đất nhỏ bé ven sông, di sản vẫn đang được gìn giữ mỗi ngày bằng những bàn tay lấm đất nhưng đầy tự hào.
Làng nghề gốm sứ Lái Thiêu (TP Thuận An, tỉnh Bình Dương cũ; nay thuộc TP.HCM) hình thành từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, chủ yếu do các di dân gốc Hoa sáng lập. Với giá trị lịch sử và kỹ thuật đặc trưng, nghề Gốm tại đây đã được công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể Quốc gia.
Ông Nguyễn Tiến Thành, Chủ tịch Hiệp hội Gốm sứ Bình Dương cho biết, hầu hết các cơ sở gốm sứ đều kinh doanh theo mô hình gia đình nên không có vốn để xây dựng nhà xưởng mới. Mặt khác, thợ lành nghề đã ổn định chỗ ở nên sẽ không theo nhà máy di chuyển nơi khác. Để lưu giữ nghề truyền thống đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia cần có chính sách hỗ trợ đặc thù.
"Chúng tôi mong muốn các cấp, các ngành quy hoạch 1- 2 cụm công nghiệp có vị trí giao thông thuận tiện, không quá xa nơi sản xuất cũ để doanh nghiệp vận chuyển lao động lành nghề lên nơi sản xuất mới. Từ đó, gây dựng bộ khung sản xuất, nơi sản xuất mới đi vào ổn định thì sau đó ngưng hẳn ở nơi cũ", ông Nguyễn Tiến Thành nói.