Chính phủ của Thủ tướng Scott Morrison cam kết cung cấp cho các nước láng giềng vaccine COVID-19 vào năm 2021, coi đây như một phần của gói hỗ trợ trị giá 385 triệu USD nhằm đạt được "phạm vi tiêm chủng đầy đủ" trong khu vực. Gần đây, Australia cũng ký một thỏa thuận "mang tính bước ngoặt" với Fiji - một trong những quốc gia đông dân nhất trong khu vực, cho phép triển khai và tập trận quân sự trong phạm vi lãnh hải hai nước.
Jonathan Pryke, người đứng đầu Viện nghiên cứu Lowy có trụ sở tại Sydney cho biết: “Trung Quốc chưa chú ý đến việc cung cấp sự hỗ trợ về COVID-19 ở khu vực. Trong khi đó, Australia cho thấy sự thiện chí khi không quên khu vực Thái Bình Dương trong thời kỳ khủng hoảng".
Australia gia tăng quan hệ với các quốc đảo nhỏ ở Thái Bình Dương, ngăn ảnh hưởng Trung Quốc ở khu vực. (Ảnh: Bloomberg)
Trong thập kỷ qua, ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc tại khu vực Thái Bình Dương gồm 14 quốc gia - dân số chỉ 13 triệu người, chiếm trên 15% diện tích thế giới. Điều này dấy lên hồi chuông cảnh báo cho Mỹ và Australia. Các nhà ngoại giao và quan chức tình báo lo ngại, mục tiêu cuối cùng của Bắc Kinh có thể là thiết lập một căn cứ hải quân, chi phối chiến lược quân sự của các nước này.
Cuộc chiến giành ảnh hưởng trong khu vực diễn ra sau khi Thủ tướng Scott Morrison kêu gọi tiến hành cuộc điều tra về nguồn gốc của dịch COVID-19. Căng thẳng Trung Quốc - Australia gia tăng khiến Bắc Kinh áp đặt các hạn chế đối với nhiều mặt hàng từ rượu đến tôm hùm xuất khẩu từ Australia.
Các dự án bị đình trệ
Australia đã thâm nhập, gây ảnh hưởng ở Thái Bình Dương sau khi các quốc đảo nhanh chóng chặn các chuyến bay, tàu du lịch đến để ngăn chặn virus SARS-CoV-2. Trong khi đó, Trung Quốc cũng ra lệnh cho các công nhân đang phát triển các dự án gắn với sáng kiến “Vành đai và Con đường” về nước, đồng thời cắt giảm nhân viên ngoại giao ở 10 quốc gia ở Thái Bình Dương.
Theo Paul Barker, Giám đốc điều hành của Viện Quốc gia, tại Papua New Guinea, việc triển khai của một trong những dự án cơ sở hạ tầng nổi tiếng nhất khu vực đã bị đình trệ trong năm nay. Papua New Guinea là quốc gia giàu tài nguyên, đông dân nhất trong khu vực và cho đến nay là nước nhận được sự hậu thuẫn tài chính lớn nhất của Trung Quốc.
Paul Barker cho biết, nhân viên Trung Quốc rời khu công nghiệp biển ở Madang trên bờ biển phía Bắc Papua New Guinea, nơi đã nhận được tài trợ ít nhất 73 triệu USD từ Bắc Kinh và sẽ được sử dụng làm cơ sở để đánh bắt cá ngừ. Bên cạnh đó, nhiều dự án khác do Trung Quốc hậu thuẫn xung quanh thủ đô của Papua New Guinea cũng đã đi vào bế tắc trong năm nay. Paul Barker cũng hy vọng sự hiện diện của Trung Quốc, cùng với các đề nghị hỗ trợ tài chính của Bắc Kinh, sẽ tăng trở lại khi đại dịch được kiểm soát.
“Papua New Guinea muốn có sự cạnh tranh giữa các nhà thầu cũng như nhà cung cấp tài chính, và nếu Trung Quốc đưa ra đề nghị đó trong tương lai, chính phủ Papua New Guinea sẽ hoan nghênh. Trong khi hầu hết người dân Papua New Guinea có xu hướng tìm đến sự hỗ trợ từ Australia nhiều hơn”, Paul Barker nói.
‘Âm ỉ Chiến tranh Lạnh'
Thế nhưng, Trung Quốc không phải hoàn toàn ngừng hoạt động, gây ảnh hưởng ở khu vực này. Bắc Kinh đã bổ nhiệm Đại sứ mới tại hai quốc đảo Kiribati và Solomon - hai quốc gia gần đây đã cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đài Loan và chuyển sang Trung Quốc.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho biết, bất chấp tác động của COVID-19, quan hệ nước này với các quốc đảo Thái Bình Dương vẫn tiếp tục tiến triển. Bắc Kinh chia sẻ kinh nghiệm y tế và cung cấp tài liệu cho các quốc gia trong thời kỳ đại dịch. Trong khi đó các dự án “Vành đai và Con đường”, trong đó có một đường cao tốc mới ở phía Tây Papua New Guinea và một sân vận động ở quần đảo Solomon, đang “tiến triển”.
"Trung Quốc hy vọng tất cả các nước khác thể hiện thái độ tôn trọng lẫn nhau và tinh thần cởi mở để tạo điều kiện cho sự ổn định và thịnh vượng, thay vì duy trì tâm lý Chiến tranh Lạnh và xây dựng ‘các nhóm nhỏ’ cục bộ trong khi vực", Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho biết.
Kế hoạch xây dựng hai cảng vận chuyển hàng hóa chính của quốc đảo Kiribati dường như được tích hợp vào sáng kiến “Vành đai và Con đường”. Hồi tháng 9, báo cáo của Viện Chính sách Chiến lược Australia cho biết, điều này sẽ “nâng cao triển vọng về các căn cứ quân sự của Trung Quốc ở trung tâm Thái Bình Dương” thông qua các tuyến đường biển chính và gần các căn cứ của Mỹ, trong đó có cả Hawaii.
Tháng trước, Trung Quốc cũng đã ký biên bản ghi nhớ để có khả năng tài trợ cho một căn cứ biển mới trị giá 150 triệu USD ở Nam Papua New Guinea, ngay trước “cửa nhà” của Australia. Thỏa thuận này có thể có ý nghĩa địa chính trị, nhất là khi khu vực này không có trữ lượng nguồn thủy sản giàu có.
Căng thẳng giữa Trung Quốc và Australia ngày càng gia tăng trong thời gian gần đây. (Ảnh: Bloomberg)
'Lựa chọn tốt hơn'
Paul Maddison, Giám đốc Viện Nghiên cứu Quốc phòng Đại học New South Wales, cho biết: “Đại dịch COVID-19 sẽ không ngăn cản Trung Quốc thực hiện chiến lược của nước này ở Nam Thái Bình Dương bởi vì Bắc Kinh muốn tiếp tục phát huy ảnh hưởng đối với các nền dân chủ yếu và mỏng manh. Dưới sự chính quyền ông Joe Biden, Mỹ và các nền dân chủ cùng chí hướng, các quốc gia có chủ quyền ở Thái Bình Dương sẽ có lựa chọn tốt hơn để làm việc cùng nhau”.
Các nhà lập pháp ở Washington và Canberra đã cảnh báo các nước đang phát triển tránh rơi vào “bẫy nợ” của Trung Quốc, đồng thời nhấn mạnh Bắc Kinh sẽ sử dụng khoản nợ này như một đòn bẩy địa chính trị. Theo dữ liệu của Viện Lowy, Trung Quốc đã dành ít nhất 1,7 tỷ USD viện trợ và các khoản vay cho các quốc đảo ở Thái Bình Dương trong thập kỷ qua, phần lớn trong số đó cho cơ sở hạ tầng giao thông cần thiết.
Đáp lại, Australia - bị Trung Quốc coi là con rối của Mỹ, đã tiết lộ quỹ cơ sở hạ tầng trị giá 2 tỷ 1,5 tỷ USD cho khu vực vào năm 2018. Trong khi đó, Mỹ thành Văn phòng quản lý các vấn đề Thái Bình Dương thuộc Hội đồng An ninh Quốc gia Nhà Trắng, cung cấp một trung tâm để điều phối chính sách trong khu vực với các quốc gia cùng chí hướng.
Theo chuyên gia Jonathan Pryke đến từ Viện Lowy, với sự tàn phá kinh tế từ đại dịch COVID-19 kéo dài trong nhiều năm, cạnh tranh địa chiến lược trong khu vực sẽ tiếp tục gia tăng khi các quốc gia tìm cách phục hồi sau đại dịch.
“Trung Quốc nhận thức được rằng, đại dịch COVID-19 đã định hình nên cuộc khủng hoảng kinh tế khiến khu vực trở nên dễ bị tổn thương hơn và tuyệt vọng hơn đối với viện trợ và các khoản vay nước ngoài. Điều đó tạo ra môi trường chiến lược tốt hơn để thúc đẩy lợi ích của Bắc Kinh”, chuyên gia Jonathan Pryke cho hay.