Tại Hội nghị quốc tế về “Kinh tế đại dương bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu” diễn ra hôm nay (13/5), vấn đề ô nhiễm rác thải nhựa đại dương được các chuyên gia đặc biệt quan tâm.
Theo TS. Nguyễn Lê Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu biển và hải đảo, ô nhiễm môi trường biển do rác thải nhựa đã trở thành vấn đề môi trường toàn cầu, được chính phủ các quốc gia, các tổ chức quốc tế, nhà khoa học và người dân trên toàn thế giới quan tâm. Rác thải nhựa là một trong những đe dọa lớn nhất của đại dương thế giới, đã và đang phá hoại các hoạt động kinh tế, xã hội tại các vùng biển và vùng bờ biển, như du lịch, nghỉ dưỡng, nghề cá và giao thông, môi trường, đa dạng sinh học và nguồn lợi cá biển, sức khỏe và sự an toàn của con người…
Báo cáo hiện trạng môi trường biển và hải đảo quốc gia giai đoạn 2016 - 2020 do Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố năm 2021 đã chỉ ra chỉ số tiêu thụ nhựa trên đầu người tại Việt Nam tăng nhanh từ 3,8 kg/năm/người năm 1990, tăng lên 54 kg/năm/người vào năm 2018, trong đó 37,43% sản phẩm là bao bì và 29,26% là đồ gia dụng. Việc xả rác thải nhựa bừa bãi cùng một lượng lớn rác thải từ đại dương dạt vào đảo, bãi tắm, đặc biệt trong mùa du lịch đang là vấn đề đáng báo động ở vùng ven biển và các hải đảo.
Hội nghị quốc tế về “Kinh tế đại dương bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu” diễn ra hôm nay (13/5).
Trong bối cảnh ô nhiễm nhựa đã trở thành một cuộc khủng hoảng cấp quốc gia và toàn cầu, Chính phủ Việt Nam kêu gọi sự tham gia vào cuộc của các Bộ, ngành, các tổ chức trong và ngoài nước, khu vực tư nhân và cộng đồng chống lại ô nhiễm nhựa. Chính phủ Việt Nam nhiều hoạt động thiết thực trong cuộc chiến chống lại rác thải, đặc biệt là rác thải nhựa đại dương.
Cụ thể, năm 2017, Việt Nam chính thức gia nhập danh sách 127 quốc gia thông qua Nghị quyết Hội đồng Môi trường Liên hợp quốc của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc về chất thải nhựa và vi nhựa đại dương.
Năm 2018, tại Hội nghị thượng đỉnh G7 tổ chức ở Canada, Thủ tướng Chính phủ đã cam kết hành động cũng như kêu gọi hợp tác toàn cầu trong việc giải quyết vấn đề rác thải nhựa trên biển.
Năm 2019, Thủ tướng đã phê duyệt Quyết định số 1746/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030, tiếp đó phát động phong trào chống chất thải nhựa trên toàn quốc, nhiều cơ quan, tổ chức, địa phương, doanh nghiệp và các cá nhân đã có nhiều hành động thiết thực, ý nghĩa, hiệu quả để chống, giảm thiểu chất thải nhựa.
Năm 2020, Việt Nam chủ động và tích cực tham gia vào các đối thoại song phương và đa phương với chính phủ các nước, thảo luận các giải pháp tối ưu và xây dựng các cơ chế tiềm năng nhằm tăng cường hợp tác quốc tế trong giải quyết ô nhiễm nhựa đại dương.
Năm 2021, Thủ tướng ban hành Quyết định số 1407/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Việt Nam chủ động chuẩn bị và tham gia xây dựng Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa đại dương.
Theo thống kê, hiện nay mạng lưới đối tác và các bên liên quan về vấn đề rác thải và rác thải nhựa có khoảng hơn 70 dự án, chương trình… thực hiện tại 19/28 tỉnh thành ven biển và các huyện đảo. Thông qua đó đã thúc đẩy được sự tham gia và kết nối cơ hội hợp tác, đồng thời thể hiện quan điểm cấp tiến và những cam kết mạnh mẽ của Việt Nam để giải quyết vấn đề ô nhiễm nhựa toàn cầu.
Điều đáng nói, mặc dù các quy định có tính pháp lý và các sáng kiến, cách thức quản lý về vấn đề nhựa và rác thải nhựa đã được áp dụng và một số khu vực và quốc gia đã góp phần giải quyết vấn đề rác thải nhựa đại dương. Tuy nhiên, lượng rác thải nhựa vẫn tiếp tục gia tăng trên toàn thế giới, do đó vẫn còn tồn tại trong khuôn khổ hiện hành làm cản trở đến việc kiểm soát hiệu quả rác thải nhựa đại dương.
TS. Nguyễn Lê Tuấn chỉ ra các điểm cụ thể như: Một số hạn chế trong các công cụ quốc tế hiện có trong việc giải quyết rác thải nhựa, bao gồm phạm vi không đủ đối với các nguồn chính gây ô nhiễm nhựa, miễn trừ và thiếu các tiêu chuẩn thực thi. Việc thiếu các tiêu chuẩn thực thi có thể được tìm thấy trong các thuật ngữ được sử dụng trong các công cụ pháp lý. Điều này để lại hạn chế cho mỗi quốc gia vì hệ thống pháp luật, hoàn cảnh và năng lực môi trường khác nhau.
Thứ hai, khác biệt về pháp luật và thiếu khả năng thực thi, tính hiệu lực của các quy định cùng các biện pháp quản lý. Việc thực hiện và thực thi các quy định và biện pháp quản lý ở cấp quốc gia là một yếu tố chính để giải quyết hiệu quả rác thải nhựa đại dương. Tuy nhiên, một số trường hợp cho thấy các sáng kiến quốc tế vẫn chưa được chuyển thành các kế hoạch quản lý cấp quốc gia hoặc có những quốc gia, vùng lãnh thổ thiếu khả năng thực thi, thực hiện không đầy đủ, mức phạt không đủ răn đe những người vi phạm, hoặc thiếu sự rõ ràng trong các quy định dẫn đến sự chênh lệch về nhận thức cộng đồng. Tất cả những điều này đều là những thách thức lớn đối trong việc kiểm soát hiệu quả ô nhiễm môi trường biển do rác thải nhựa.
Thứ ba, hợp tác thiếu hiệu quả và sự tham gia không đầy đủ của các quốc gia vào các sáng kiến khu vực và quốc tế. Thực tế cho thấy, có nhiều sáng kiến khu vực và quốc tế hiện nay và các sáng kiến này tạo ra một cơ sở cho sự hợp tác và điều phối các vấn đề rác thải trên biển, nhưng trong một số trường hợp cho thấy còn thiếu các cơ chế tài chính các quốc gia trong nỗ lực giải quyết ô nhiễm nhựa và sự tham gia của các quốc gia trong những sáng kiến này là không đầy đủ và không có tính ràng buộc. Điều này sẽ để lại những lỗ hổng trong các nỗ lực toàn cầu và khu vực đối với việc giải quyết ô nhiễm nhựa đại dương, và thực tế rằng ô nhiễm nhựa đại dương là một vấn đề xuyên biên giới.
Thứ tư, thiếu cơ chế báo cáo, giám sát và đánh giá chung về ô nhiễm nhựa. Bất chấp các chương trình chống rác thải nhựa hiện có, các dữ liệu về hiện trạng, phân bố rác thải nhựa trong môi trường biển cũng như các tác động tới môi trường biển và sức khỏe con người vẫn chưa được đầy đủ. Những tồn tại này cản trở khả năng ưu tiên và các nỗ lực giảm thiểu và đánh giá mức độ hiệu quả của các biện pháp đã thực hiện.
Thứ năm, chưa nhìn nhận được bản chất toàn cầu của nhựa và rác thải nhựa đại dương cần phải có cách tiếp cận toàn cầu. Vòng đời của nhựa bắt đầu từ quá trình sản xuất, thương mại, tiêu dùng đến quản lý chất thải nhựa đều có tính quy mô toàn cầu. Mỗi quốc gia có các quy định, tiêu chuẩn khác nhau để xử lý nhựa, rác thải nhựa theo điều kiện, đặc thù pháp lý của quốc gia, khu vực đó. Điều này dẫn đến thực tế việc sản xuất, tiêu thụ, thương mại và quản lý chất thải nhựa, phục hồi chất thải nhựa còn nhiều bất cập và không bền vững nếu nhìn dưới góc độ toàn cầu.
Kể từ năm 2019 đến nay, toàn nhân loại đã, đang và sẽ phải đấu tranh với đại dịch toàn cầu COVID-19, làm tăng áp lực lên vấn đề rác thải nhựa đại dương vốn đã nằm ngoài tầm kiểm soát này. Rác thải y tế từ đại dịch COVID-19 đang đe dọa sức khỏe con người và môi trường, dẫn đến nhu cầu cấp thiết phải cải thiện các hoạt động quản lý rác thải y tế.
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam, bà Phạm Thu Hằng cũng khẳng định: Biển và đại dương là nguồn sống, không gian sinh tồn vô cùng quan trọng của con người và là nền tảng cơ bản cho phát triển bền vững. Tuy vậy, biển và đại dương hiện nay đang phải đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm trọng, điển hình nhất là ô nhiễm rác thải, chiếm tỷ trọng lớn và phân hủy lâu nhất là rác thải nhựa.
Rác thải nhựa đại dương không chỉ là vấn đề lớn, phức tạp ở quy mô, phạm vi mà cả về mặt tri thức, hiểu biết, cũng như quá trình phát sinh, phát tán, biến đổi, đặc biệt là những tác động của rác thải nhựa đến các hoạt động KT-XH, môi trường, các HST biển và sức khỏe con người.
Ô nhiễm rác thải nhựa, đặc biệt là ô nhiễm rác thải nhựa đại dương, đã trở thành vấn đề cấp bách ở phạm vi quốc gia, khu vực và toàn cầu. Giảm thiểu chất thải từ nhựa đã trở thành yêu cầu cấp bách ngay lúc này.
Bà Hằng cũng cho biết, vấn đề ô nhiễm chất thải nhựa và rác thải nhựa đại dương ở Việt Nam thời gian qua đã được Chính phủ đặc biệt quan tâm và nỗ lực giải quyết thông qua việc đổi mới căn bản trong chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường và bằng những hành động thiết thực, điển hình như: Thông qua Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi, trong đó luật hóa các nội dung liên quan đến chất thải nhựa như quản lý, tái sử dụng, tái chế, xử lý và phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn về nhựa; Ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030; Triển khai thực hiện Đề án Việt Nam chủ động chuẩn bị và tham gia xây dựng Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa đại dương.
Vì vậy, theo bà Hằng, cần sớm đưa ra các giải pháp, lộ trình và hành động cụ thể để đạt được một kết quả thực sự đó là Thỏa thuận toàn cầu về giải quyết vấn đề rác thải nhựa. Xây dựng một cơ chế tài chính, hỗ trợ chuyển giao công nghệ giải quyết vấn đề rác thải nhựa trên đất liền và ở biển.