Tổ chức giáo dục Quacquarelli Symonds (QS) vừa công bố kết quả bảng xếp hạng 51 lĩnh vực thuộc 5 nhóm lĩnh vực của 1.543 cơ sở giáo dục đại học thế giới, với khoảng 14.000 chương trình đào tạo.
Năm nay, Việt Nam có 5 trường đại học được xếp hạng nhóm lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ gồm: Đại học Bách Khoa Hà Nội (360), Đại học Quốc gia TP.HCM (362), Đại học Quốc gia Hà Nội (386), Đại học Duy Tân và Đại học Tôn Đức Thắng (401 - 450).
Đại học Quốc gia Hà Nội. (Ảnh minh hoạ: VNU)
Đại học Quốc gia Hà Nội có 6/51 lĩnh vực được xếp hạng, gồm: Khoa học máy tính và hệ thống thông tin, Cơ kỹ thuật, hàng không và chế tạo, Toán học, Vật lý và thiên văn học, Kinh doanh và Khoa học quản lý và Kỹ thuật điện và điện tử.
5/6 trên lĩnh vực thuộc top 500 thế giới - đặc biệt 3 lĩnh vực Toán học (Mathematics); Vật lý và Thiên văn học (Physics & Astronomy) và Kinh doanh và Khoa học quản lý (Business & Management Studies) đều được xếp hạng số 1 tại Việt Nam.
Đại học Bách khoa Hà Nội là trường đạt thứ hạng cao nhất - 360 thế giới. Các nhóm ngành thuộc lĩnh vực này mà trường được xếp hạng gồm: Kỹ thuật Điện - Điện tử; Kỹ thuật Cơ khí, Hàng không và Chế tạo; Khoa học máy tính và Hệ thống thông tin; Toán học; Khoa học Vật liệu.
Ngoài lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ, Việt Nam còn có một đại diện được xếp hạng ở lĩnh vực Khoa học Tự nhiên là Đại học Quốc gia Hà Nội với vị trí trong nhóm 401 - 450.
Ở lĩnh vực Khoa học Xã hội và Quản lý, Đại học Quốc gia TP.HCM được xếp trong nhóm 401 - 450 và Đại học Quốc gia Hà Nội nhóm 451 - 500.
Năm nay, Việt Nam không có trường nào xuất hiện trong bảng xếp hạng ở lĩnh vực Nghệ thuật và Nhân văn; Khoa học Đời sống và Y học.
Bảng xếp hạng QS WUR by subject 2022 được xây dựng dựa trên 5 tiêu chí với các trọng số được tùy biến cho phù hợp với các lĩnh vực, bao gồm: Uy tín học thuật; uy tín tuyển dụng; tỷ lệ trích dẫn trung bình trên một bài báo; chỉ số H-index đo lường năng suất và mức độ tác động của các công bố khoa học của đội ngũ giảng viên; mạng lưới nghiên cứu quốc tế.
Các tiêu chí xếp hạng của QS nhấn mạnh vào đóng góp và tác động của chất lượng đào tạo của một ngành/lĩnh vực đào tạo đối với xã hội (thông qua đánh giá của học giả và nhà tuyển dụng); các đóng góp cho hoạt động nghiên cứu khoa học (thông qua mức độ trích dẫn và chỉ số H-index) và khả năng quốc tế hóa trong nghiên cứu khoa học (thông qua mạng lưới nghiên cứu quốc tế).