Sáng 3/1, tại buổi thuyết trình "Hiểu về các khía niệm và cách tiếp cận chính đối với di sản văn hóa phi vật thể trong Công ước 2003 về Bảo vệ si sản văn hóa phi vật thể" được tổ chức tại Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, TS. Frank Proschan - học giả Fulbright 2019-2020, cộng tác nghiên cứu tại Trung tâm Smithsonian về Đời sống dân gian và di sản văn hoá, giảng viên thỉnh giảng, trường Đại học Khoa học xã hội nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội làm rõ một số cách hiểu sai và quan niệm sai lầm về DSVHPVT ở Việt Nam.
Dẫn lại khái niệm DSVHPVT được nêu trong Công ước 2003, TS. Frank nhấn mạnh "chính các cộng đồng, nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân - những người thực hành một biểu đạt văn hóa nào đó - và chỉ họ mà thôi - mới có thể là những người công nhận nó là một bộ phận cấu thành di sản văn hóa phi vật thể của họ và chỉ họ mới có thể xác định được giá trị của nó".
TS. Frank Proschan chia sẻ tại biểu tọa đàm.
Theo ông Frank, ở Việt Nam có xu hướng coi DSVHPVT cũng giống như các thuật ngữ về Di sản thế giới, ngay cả khi Công ước 2003 về Di sản văn hóa phi vật thể rất khác với Công ước 1972 về Bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới.
TS. Frank Proschan cho rằng những người soạn thảo ra Công ước 2003 đã chủ ý không sử dụng lại cụm từ “Di sản thế giới của nhân loại nói chung, như trong ngôn từ của Công ước 1972”. Thay vào đó, họ nhấn mạnh rằng di sản văn hóa phi vật thể thuộc về cộng đồng và nhóm người cụ thể.
Tuy nhiên, theo ông Frank, vẫn còn một số nhầm lẫn ở Việt Nam khiến chúng ta hiểu sai về DSVHPVT là gì, thuộc về ai.
"Công ước 2003 đã rất thận trọng khi dùng cụm từ 'di sản văn hóa phi vật thể hiện có trên lãnh thổ của một quốc gia, chứng không bao giờ viết 'di sản quốc gia' hay 'di sản của quốc gia'. Điều này nhắc nhở các quốc gia thành viên có trách nhiệm bảo vệ di sản đó, nhưng không thể tuyên bố quyền sở hữu DSVHPVT vốn thuộc về các cộng đồng, nhóm người và cá nhân. Mà nếu DSVHPVT đã không thuộc về một quốc gia thì nó cũng không thuộc về nhân loại nói chung...Một điều thiết yếu khi chúng ta nói về Danh sách DSVHPVT đại diện của nhân loại là phải nhấn mạnh vào 'đại diện' chứ không phải là 'của nhân loại'", ông nêu rõ,
TS. Frank Proschan cũng phản ánh về thực trạng sử dụng một số cụm từ phản ánh những quan niệm sai lầm nhất định. Ông dẫn ra 3 cụm từ có thể gây hiểu lầm thường gặp ở Việt Nam là “Di sản văn hóa phi vật thể thế giới”, “Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia”, “UNESCO công nhận”.
Dân ca quan họ Bắc Ninh được Việt Nam công bố là "Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại"
Với cách gọi “Di sản văn hóa phi vật thể thế giới”, “Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia”, TS. Frank nói rõ:
"DSVHPVT thuộc về cộng đồng và chỉ duy nhất thuộc vệ cộng đồng. DSVHPVT không thuộc về quốc gia, nhà nước, dân tộc hay nhân loại cũng như toàn thế giới. Trạng thái của một DSVHPVT không thay đổi khi được UNESCO ghi danh vào danh sách DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp hoặc Danh sách DSVHPVT đại diện của nhân loại. Nó vẫn thuộc về cộng đồng của nó và không trở thành di sản thế giới hay tài sản của nhân loại nói chung".
Vị tiến sỹ cũng băn khoăn với cách dùng cụm từ DSVHPVT quốc gia. Ông lưu ý một xu hướng sai lầm ở Việt Nam khi nghĩ rằng DSVHPVT có thể được xếp hạng theo tầm quan trọng của nó.
Với khái niệm "công nhận" mà nhiều người vẫn thường sử dụng, TS. Frank khẳng định chỉ có cộng đồng mới có thể công nhận di sản của chính họ và UNESCO cũng chỉ ghi danh di sản vào danh sách của Công ước 2003.
"Việc công nhận một điều gì đó là DSVHPVT không phải là công việc của chuyên gia, cán bộ quản lý, cũng không phải là việc của UNESCO hay cộng đồng quốc tế. Đúng hơn, đây là trách nhiệm của cộng đồng, nhóm người hoặc cá nhân có liên quan tới biểu đạt hoặc tập quán đó. Tất cả những gì mà UNESCO hay Ủy ban Liên Chính phủ của Công ước có thể làm là "ghi danh" hay nói cách khác là đưa DSVHPVT vào một trong số các danh sách của Công ước", ông làm rõ.
Đối với TS. Franf Proschan, việc sử dụng đúng thuật ngữ hết sức quan trọng vì 1 trong 4 mục đích của Công ước là “nâng cao nhận thức ở cấp địa phương, quốc gia, quốc tế về tầm quan trọng của Di sản văn hóa phi vật thể và của việc đảm bảo sự tôn trọng lẫn nhau”.
“Chúng ta, những người làm việc cùng nhau trong lĩnh vực bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể có trách nhiệm rất nghiêm túc là phải tôn trọng những khái niệm, ngôn ngữ trong Công ước để đảm bảo rằng khi chúng ta nâng cao nhận thức cộng đồng về Di sản văn hóa phi vật thể và tầm quan trọng của việc bảo vệ các di sản đó thì phải làm đúng với những gì đã ghi trong Công ước”, ông kết luận.