3 trung vệ buổi sơ khai: Đá để không thua
Sau khi trải nghiệm đội hình 2-3-5 cùng những người Pháp buổi ban đầu, suốt một thời gian dài thời Pháp thuộc, các đội bóng Việt Nam sử dụng đội hình WM được sáng tạo bởi HLV của Arsenal Herbert Chapman.
Việc quy định số áo ra sân của các cầu thủ cũng tương ứng với từng vị trí trong đội hình này, theo thứ tự từ số 1 đến 11 lần lượt từ hàng phòng ngự lên các tuyến trên. WM còn được duy trì sử dụng ở Việt Nam trong suốt những năm 50 dù ở tầm thế giới, người Hungary đã mở đầu cho sự thay đổi với dấu ấn là tấm HCV Olympic Helsinki 1952.
BLV Quang Tùng bên cạnh bảng sơ đồ WM của HLV huyền thoại Herbert Chapman trong bảo tàng của CLB Arsenal
Thay thế cho WM là 4-2-4 phổ biến trong những năm 60. Đây là sơ đồ có nhiều đất hoạt động cho các tiền đạo cánh. Đến những năm 70 xu hướng 4-3-3 xuất hiện bằng việc vị trí số 10 (không nhất thiết phải là cầu thủ mang áo số 10) được kéo xuống thấp hơn để hỗ trợ kiểm soát trung tuyến. Vai trò của các tiền đạo cánh cũng đa năng hơn, không chỉ dừng lại ở những quả tạt thuần tuý.
Đặc điểm chung của 4-2-4 và 4-3-3 ở bóng đá Việt Nam giai đoạn 1960-1970 là hai trung vệ. Họ không chơi giăng ngang mà thường có xu hướng một người đá dập, kèm trung phong và một người bọc lót, hay trung vệ thòng được chơi tự do, chính là một libero đúng nghĩa.
Đến giữa những năm 80, khi bóng đá Việt Nam gặp khó khăn vì cơ chế, chất lượng đi xuống. Việc có được các tiền vệ tốt rất hạn chế, 5-3-2 với tâm lý "đá để không thua” trở nên phổ biến. Đó là khi một tiền vệ có xu hướng phòng ngự được kéo xuống thấp ngang trung vệ kèm người, tạo thành cặp trung vệ dập và vẫn có trung vệ thòng.
Đội hình 4-3-3 "vô đối" của Thể Công những năm 70
Sơ đồ này có thêm đất diễn cho các cầu thủ cánh khi họ quán xuyến cả hành lang dài. Tuy nhiên 5-3-2 trong một thời gian dài không có nhiều sự tiến bộ, đặc biệt là ở các trung vệ, vì kỹ năng phòng ngự được đề cao trong khi khả năng chuyền bóng, tham gia tổ chức lối chơi ít có cải thiện.
Trong giai đoạn này có một vài thời điểm ở đội tuyển xuất hiện 4-4-2 nhưng cực kỳ hiếm hoi và nhìn chung là chưa thành công.
Video: Đoàn Văn Hậu có nên ở lại châu Âu chơi bóng? (Nguồn: Next Sports)
Một trong số đó là trận thắng Campuchia 4-0 tại SEA Games năm 1995 ở Chiangmai, Thái Lan. Do đối thủ yếu nên HLV Karl-Heinz Weigang giữ lại Mạnh Cường, Hữu Thắng chơi trung vệ. Ông đưa Chí Bảo vào thay trung vệ Anh Dũng, hợp cùng Công Minh thành một cặp tấn công ở cánh phải, tạo thêm yếu tố tiếp cận.
Một lần khác là giai đoạn đầu của HLV Alfred Riedl năm 1998 khi chuẩn bị cho Tiger Cup. Phương án này khi đó chưa phù hợp, nhà cầm quân người Áo buộc phải cho đội tuyển Việt Nam quay lại 5-3-2 truyền thống.
Sơ đồ 5-3-2 hoàn hảo của "thế hệ vàng không ngai"
Sơ đồ 5-3-2 của Riedl thực sự hoàn hảo ở SEA Games năm 1999 tại Bruinei, với Đỗ Khải đá thòng, Phạm Như Thuần, Mai Tiến Dũng chơi dập đã không thủng lưới bàn nào cho đến trước trận chung kết.
Đội hình Tuyển Việt Nam trận thắng Campuchia ở SEA Games 1995, lần sử dụng 4-4-2 hiếm hoi trong giai đoạn những năm 90
Cách chơi của ba trung vệ năm 1999 vẫn mang nhiều đặc thù Việt Nam, chưa vươn tới tầm của 3-5-2 đúng nghĩa, chưa phải là hàng thủ ba trung vệ giăng ngang chơi đa năng.
Tuy nhiên, bộ ba này là sự kết hợp có lý nhất, là sự bổ sung lẫn nhau trong cách chơi có sự đeo bám dẻo dai, quyết liệt khi cần thiết, có tầm vóc để áp chế, kiểm soát bóng bổng và cải thiện đáng kể khả năng thu hồi, giao nhận bóng, đóng góp vào lối chơi có sự phát động từ tuyến dưới.
Họ đã vô hiệu hoá được Kiatisuk Senamuang trong cả hai trận đối đầu Thái Lan. Điều đáng tiếc là các vị trí khác chưa bù đắp hết được, khi đội tuyển Việt Nam để thua trong hai tình huống sút xa ở trận chung kết.
SEA Games năm 1999, bóng đá Việt Nam có một lứa cầu thủ chín về tuổi đời và tuổi nghề nhưng thật tiếc trong lần cuối cùng dự SEA Games họ không thể có huy chương vàng. Cũng thật tiếc cho thế hệ này vì sau đó họ không có thêm bất cứ trận chung kết nào khác.
Những năm 2000, 5-3-2 vẫn còn duy trì nhưng không còn độc tôn và gần như biến mất ở nửa cuối thập niên để nhường chỗ cho sự phổ cập 4-4-2 với cặp trung vệ giăng ngang, cho đến nhưng năm gần đây cùng những vận động biến đổi của nó như 4-1-4-1, 4-4-1-1; 4-5-1 hay ưu việt hơn cả 4-2-3-1.
Khi mà chất lượng cầu thủ phòng ngự được cải thiện, bóng đá Việt Nam có thêm sự lựa chọn 3-4-3 tương đối cân bằng, có nhiều đột biến nhờ khả năng phát động của các trung vệ cùng tốc độ của các cầu thủ tấn công.
Thế hệ vàng không ngai của tuyển Việt Nam với 2 HCB liên tiếp ở Tiger Cup 1998 và SEA Games 1999
Điểm tiến bộ lớn nhất mà bóng đá Việt Nam có được kể từ khoảng cuối những năm 2000 là sự thay đổi sơ đồ chiến thuật trong từng trận đấu đã xuất hiện nhiều hơn và đem lại hiệu quả.
Đó là sự khác biệt đáng kể vì trước đây sự thay đổi thường chỉ là thay nhân sự hoặc ý đồ chơi tuỳ vào tình thế. Điều này chứng tỏ chất lượng cầu thủ có sự cải thiện cả về kỹ năng và sự hiểu biết chiến thuật, bên cạnh đó cũng là năng lực và sự cấp tiến của các nhà cầm quân.