Tôi là phó hiệu trưởng một trường tiểu học và có hơn 10 năm cắm bản tại những điểm trường khó khăn nhất của tỉnh Lai Châu, hơn ai hết tôi thấu hiểu những khó khăn của đội ngũ giáo viên vùng cao. Có những điểm trường đến tận bây giờ vẫn không có điện, không có nước sạch, không có sóng điện thoại.
Trường tiểu học của chúng tôi có hơn 10 điểm lẻ rải rác khắp thôn bản. Để đi vào điểm lẻ, giáo viên phải trèo đèo, lội suối, băng rừng. Mùa mưa lũ, giao thông bị chia cắt, thầy cô luộc lá sắn ăn với măng cay lót lòng. Ngày thường, anh chị em phải lội suối bắt cá hoặc tìm rêu đá để cải thiện bữa ăn.
Vất vả, khó khăn là vậy nhưng mức lương của giáo viên vùng cao tương đối thấp. Chưa kể ngoài tiền lương, giáo viên hoàn toàn không có thu nhập gì thêm. Do vậy với những anh chị em cắm bản tại vùng sâu, vùng xa chúng tôi luôn cảm thấy trân trọng và biết ơn những hy sinh, cố gắng của đồng nghiệp mang con chữ đến học sinh.
Tôi nói ra những điều này cũng chỉ mong các bộ, ban ngành thấu hiểu, đồng cảm và chia sẻ với những khó khăn của giáo viên vùng cao. Đồng thời tôi cũng muốn chỉ ra điều vô lý đang tồn tại trong ngành giáo dục, đó là câu chuyện về các loại chứng chỉ, nhất là chứng chỉ chức danh nghề nghiệp, tin học và ngoại ngữ.
Quy định chứng chỉ áp dụng với giáo viên vùng cao là không hợp lý.
Nói về hai loại chứng chỉ tin học và ngoại ngữ, đặc biệt là ngoại ngữ, hàng năm, giáo viên của trường về Hà Nội để học loại chứng chỉ này. Đối với những giáo viên cắm bản tại thâm sơn cùng cốc để ra điểm trường chính còn phải mất một ngày trời, có khi vài tháng mới về thăm gia đình được một lần. Nhưng đều như vắt tranh mỗi khi có lịch học chứng chỉ lại phải đăng ký và lặn lội về tận Thủ đô để ôn tập, thi. Điều này khiến thầy cô thực sự vất vả.
Lương giáo viên đặc biệt là giáo viên vùng cao đã thấp lại phải bỏ ra số tiền gần chục triệu đồng cho các loại chứng chỉ nêu trên. Số tiền ít ỏi đó nhưng giáo viên đằng đẵng chờ nhận để gửi về cho gia đình hoặc đơn giản là có miếng thịt, con cá để cải thiện bữa ăn.
Để tiện hình dung, tôi xin được làm phép so sánh. Tại một điểm trường mầm non mà tôi từng ghé qua, tiền ăn trưa của 60 học sinh trong một ngày khoảng 300.000 đồng và chỉ có duy nhất một món trứng rán các con cũng ăn ngon lành. Số tiền 300.000 đồng này là tiền của giáo viên nhà trường quyên góp để cải thiện bữa ăn cho học sinh. Vậy một tấm chứng chỉ tin học, tiếng Anh hoặc chức danh nghề nghiệp sẽ quy đổi được bao nhiêu bữa ăn cho học sinh nơi đây?
Quan trọng hơn những tấm chứng chỉ này không có nhiều tác dụng nếu không muốn nói chỉ là hình thức. Đối với chúng tôi việc học tiếng người H’Mông, Tày, Dao, Thái…còn quan trọng hơn tiếng Anh. Vì giáo viên hàng ngày phải giao tiếp với học sinh bằng tiếng của dân tộc các em. Tại những điểm bản xa xôi, chỉ cần dạy học sinh đọc thông, viết thạo tiếng phổ thông đã là cả một thành quả, nỗ lực của giáo viên rồi. Do vậy không thể áp dụng được tiếng Anh tại nhiều trường vùng cao nhưng giáo viên vẫn phải đi học các loại chứng chỉ tiếng Anh thực sự rất lãng phí, tốn kém.
Từ những ý kiến trên, tôi mong muốn Bộ GD&ĐT và Bộ Nội vụ nên có những phương án nghiên cứu bỏ các loại chứng chỉ. Hoặc nếu áp dụng cũng tùy từng điều kiện địa phương. Thứ hai là có nghiên cứu, khảo sát, đánh giá cụ thể không nên áp dụng đại trà và cào bằng vì như thế rất khập khiễng.
Có một dạo giáo viên hỏi tôi: “Tại sao chúng em nghe nói đã bỏ chứng chỉ ngoại ngữ, tin học mà vẫn phải đi học?”. Tôi trả lời là mình chưa thấy có quyết định bằng văn bản, vẫn chỉ là lời nói trên tivi.