Theo VEA, PVN là một trong ba trụ cột của ngành Năng lượng Việt Nam, trong nhiều thập kỷ qua, PVN luôn phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Đảng và Chính phủ giao trong việc thăm dò, khai thác, chế biến, xuất nhập khẩu dầu khí, cùng với nhiều nhiệm vụ quan trọng khác.
Kế hoạch sản xuất, kinh doanh, đầu tư phát triển của PVN giai đoạn 2016-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hiện tại, PVN đang tập trung thực hiện các nhiệm vụ Chính phủ giao trong giai đoạn từ 2016-2018, PVN luôn nỗ lực đạt và vượt các chỉ tiêu Chính phủ đề ra.
Toàn cảnh hội thảo
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai nhiệm vụ, PVN còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình sản xuất, kinh doanh, đầu tư xây dựng các công trình năng lượng, trong đó có việc chậm tiến độ các dự án trong Tổng sơ đồ điện VII (hiệu chỉnh), những khó khăn đó gồm:
Khó khăn trong thu xếp vốn trong các dự án điện: Theo Nghị định số 91/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015 của Chính phủ về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (22%), phần lợi nhuận sau thuế chỉ được trích lập 3 quỹ (khoảng 30% giá trị lợi nhuận sau thuế), phần còn lại phải nộp vào ngân sách Nhà nước. Do đó, PVN không đủ để thực hiện trách nhiệm của nhà đầu tư mà phải yêu cầu bảo lãnh vay vốn.
Nhiều dự án có quy mô lớn, vốn đầu tư lớn như: Nhà máy Nhiệt điện Sông Hậu 1, Long Phú 1, nâng cấp mở rộng NMLD Dung Quất... đều là các dự án đặc biệt quan trọng đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Tổng mức đầu tư của các dự án này lên tới nhiều tỷ USD. Việc thu xếp 70% vốn vay để triển khai các dự án này là hết sức khó khăn và không hiệu quả, nếu không có bảo lãnh của Chính phủ.
Chủ tịch VEA Trần Viết Ngãi chia sẻ tại hội thảo
Về cơ chế, chính sách ưu đãi khuyến khích các dự án điện khí LNG: Hiện nay và các năm tới, nguồn khí thiên nhiên giá thấp khai thác trong nước ngày càng suy giảm, Chính phủ đã có chủ trương và đã duyệt Quy hoạch phát triển chuỗi kho - cảng nhập khẩu khí hóa lỏng (LNG) để đa dạng hóa nguồn năng lượng cấp cho các dự án sản xuất điện, phát triển hiệu quả và bền vững ngành Điện Việt Nam, đáp ứng mục tiêu giảm ô nhiễm môi trường...
Chủ trương trên của Chính phủ là hết sức đúng đắn. Nhưng do giá khí LNG nhập khẩu cao dẫn tới giá điện sản xuất cũng tăng cao, khó cạnh tranh với các nguồn điện khác.
Khó khăn về định mức dự toán xây dựng và giá vật liệu xây dựng, đơn giá nhân công xây dựng, giá cả máy móc và thiết bị: Hiện nay, các bộ định mức đơn giá do các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền ban hành chưa đầy đủ, chưa phù hợp với yêu cầu kỹ thuật, điều kiện thi công, biện pháp thi công theo giá thị trường, dẫn tới chủ đầu tư gặp khó khăn trong công tác lập tổng mức đầu tư, tổng dự toán đối với các nhà máy nhiệt điện.
Khó khăn trong việc áp dụng Luật Xây dựng: Theo quy định tại Điều 52 Luật Xây dựng, đối với các dự án nhóm A, trước khi lập báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng, chủ đầu tư phải lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi đầu tư xây dựng làm cơ sở xem xét, quyết định chủ trương đầu tư xây dựng. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều dự án điện đã được duyệt trong Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia. Theo quan điểm của Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, đây là các dự án quan trọng, bắt buộc phải triển khai phù hợp với tiến độ quy hoạch để đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển kinh tế đất nước. Do đó, không nên lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi.
Người lao động dầu khí
Tại hội thảo, Chủ tịch VEA Trần Viết Ngãi đã đưa ra một só kiến nghị: Thứ nhất, để thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao, trong thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư xây dựng cơ bản của PVN, đề nghị Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội xem xét điều chỉnh Luật Xây dựng theo hướng cho phép chủ đầu tư các dự án điện đã có trong Quy hoạch phát triển điện Quốc gia không phải lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi.
Thứ hai, VEA đề nghị các cơ quan có thẩm quyền dưới sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội tạo cơ chế chính sách để các dự án Nhiệt điện Sông Hậu 1, Long Phú 1 và dự án nâng cấp mở rộng NMLD Dung Quất của PVN được cấp bảo lãnh vay vốn, để đảm bảo đáp ứng kịp thời nguồn vốn cho các dự án và triển khai thực hiện đúng tiến độ.
Thứ ba, những vấn đề vướng mắc tồn tại nêu trên hiện tại đang được Chính phủ và các Bộ, ngành tháo gỡ, nhưng các tồn tại đang còn nhiều, đề nghị Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội và các Bộ, ngành tiếp tục chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, giải quyết vướng mắc để ngành Dầu khí đáp ứng được các mục tiêu chiến lược như Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị đề ra, để tới năm 2030 và tầm nhìn năm 2050 ngành Dầu khí Việt Nam phát triển bền vững và hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.